Người anh hùng ở tuổi hai mươi - Ký sự: Lê Lợi

Ngày đăng: 09:07 22/12/2025 Lượt xem: 5
NGƯỜI ANH HÙNG Ở TUỔI HAI MƯƠI

        Tháng 6 năm 2025, tôi gặp Đại tá Trần Hữu Bào, nguyên Chủ nhiệm Chính trị Sư đoàn 968 từ 1988-1993 tại Sở Chỉ huy Sư đoàn bộ binh 968 anh hùng ở Đông Hà (Quảng Trị). Nhìn gương mặt hiền từ, phúc hậu, tôi không hình dung được gần sáu mươi năm về trước, người chiến sĩ mới tròn 18 tuổi chỉ trong hai ngày đã tiêu diệt 78 tên lính thủy đánh bộ Mỹ tại Khe Sanh và sau đó được nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Chậm rãi, ông kể:
       Năm 17 tuổi, khi đang đi dân công hỏa tuyến sửa đường từ Đô Lương sang phà Thanh Chương (Nghệ An) thì được tin có đợt khám tuyển nghĩa vụ quân sự. Lúc ấy ông Bào chỉ nặng có 37 kg nhưng với suy nghĩ đất nước có chiến tranh thì bổn phận của người thanh niên là tham gia đánh giặc nên ông nói với người khám tuyển để được đủ 42 cân. Không lâu sau, cả giấy báo trúng tuyển bộ đội và giấy gọi vào học trung cấp cơ khí Bắc Thái cùng về đến nhà nhưng ông lựa chọn con đường bộ đội. Cuối năm 1967, ông được người cha chở trên chiếc xe đạp cũ lên huyện để nhập ngũ. Ngay sau đó các ông hành quân bộ ra Nghi Sơn, Thanh Hóa để huấn luyện cơ bản, từ lăn lê, bò toài, tập bắn súng và ném lựu đạn…Hết ba tháng, vừa kết thúc bắn súng bài một thì ông được biên chế vào Tiểu đội 3 (Trung đội 1, Đại đội 5, Tiểu đoàn 8, Trung đoàn 66, Sư đoàn 304) đang tác chiến tại Hướng Hóa, Quảng Trị. Mới vào đơn vị được hai ngày thì bị B52 thả bom trúng đội hình, cả đơn vị bị thương vong nặng nề.
        Sau đó đại đội 5 được lệnh đi giữ chốt ở cao điểm 595 (còn gọi là đồi 595). Đây là vị trí quân sự trọng yếu, án ngữ trục phía tây đường 9, cách căn cứ Tà Cơn của địch gần hai cây số, xung quanh là các cao điểm 832, 689, 500 và 506.
Căn cứ Tà Cơn thuộc thung lũng lòng chảo Khe Sanh rộng 60 ha ở huyện Hướng Hóa, phía tây Quảng Trị cách thành phố Đông Hà 65 km. Cùng với chi khu quân sự Hướng Hóa, cụm cứ điểm Làng Vây, sân bay Tà Cơn là một trong những cứ điểm mạnh của tập đoàn quân sự chiến lược thuộc tuyến phòng thủ hàng rào điện tử McNamara do quân đội Mỹ xây dựng trong những năm 1966 - 1968 từ Cửa Việt đến Khe Sanh. Tuyến phòng thủ McNamara có nhiệm vụ ngăn chặn quân ta từ Bắc vào, từ Lào sang, cắt đứt sự chi viện của ta trên tuyến đường Hồ Chí Minh đồng thời làm tấm bình phong che chắn cho khu vực phòng thủ của chúng ở phía Đông đường 9. Do đó quân Mỹ-ngụy ở đây được bố trí lực lượng tinh nhuệ, trang bị đầy đủ các loại vũ khí hiện đại, tối tân nhất lúc bấy giờ với hệ thống công sự dày đặc, có sự yểm trợ bằng máy bay B52 cùng các loại pháo tầm xa.
         Tà Cơn là căn cứ quân sự có kết cấu hoàn chỉnh gồm sân bay, sở chỉ huy trung tâm, hệ thống tiếp tế, thông tin đầy đủ. Điểm cao 595 do quân Mỹ chiếm đóng, có một con đường lớn chạy từ điểm cao 832 sang 595, hàng ngày xe vận tải chở hàng tiếp tế tới sân bay Tà Cơn có xe tăng yểm hộ. Sau bị quân ta vây ép, quân Mỹ tháo chạy về trung tâm cứ điểm Tà Cơn. Đại đội 5 được giao nhiệm vụ chốt giữ cao điểm xung yếu này với nhiệm vụ chặn đường tiếp tế và hạn chế máy bay của địch lên, xuống sân bay. Đại đội được trang bị hỏa lực cối 60 mm, trung đội có B41 còn tiểu đội có B40. Có sự phối hợp chi viện của Đại đội 8, Đại đội 6 cùng Đại đội 7, các đơn vị này được trang bị cối 82 mm, cối 60 mm và đại liên 12,7 mm.
         Cao điểm 595 có ba mỏm cao, mỏm 1 gần sân bay, mỏm 3 cao nhất không đóng chốt được. Tiểu đội 3 của ông Bào được lệnh chốt giữ ở giữa mỏm 1 và mỏm 2 sẵn sàng đánh bộ binh địch tấn công. Giữ chốt có năm người được trang bị chủ yếu là vũ khí cá nhân do Trung đội phó Phạm Nhất Linh trực tiếp chỉ huy. Có hai hầm chữ Y, có hố đứng bắn để quan sát phát hiện địch. Trung đội phó Linh và tiểu đội trưởng Đợi cùng chiến sĩ Nguyễn Tất Thúy giữ súng trung liên ở hầm bên trái. Hầm bên phải có tiểu đội trưởng Thứ và chiến sĩ Trần Hữu Bào giữ súng B40 và súng AK. Giữa hai cửa hầm có căng một sợi dây để báo hiệu cho nhau khi cần thiết.
Từ khi chốt giữ, ngày nào tiểu đội 3 cũng phải hứng chịu các đợt tấn công điên cuồng của địch. Quân địch dùng máy bay B52 ném bom rải thảm, pháo cối từ sân bay Tà Cơn bắn ra liên tục hòng chọc thủng tuyến phòng ngự của ta để thông đường cho chúng tiếp tế tới Tà Cơn. Tiểu đội thay nhau canh gác 24/24 tiếng trong ngày, mọi hoạt động trên chốt đều diễn ra ban đêm. Hơn bốn chục ngày không được tắm rửa, quần áo thay ra gửi anh nuôi mang về giặt rồi mang lên. Đến bữa anh nuôi mang đồ ăn đặt sẵn dưới chân đồi, cách hầm khoảng 300m theo đường chim bay, tiểu đội trên chốt bò trườn xuống lấy. Nhiều hôm cả tiểu đội phải nhịn đói vì địch đánh dữ dội quá. Ngay từ khi lên chốt tiểu đội được quán triệt phương châm chờ địch vào thật gần mới nổ súng tạo thế bất ngờ mà vẫn giữ bí mật được lực lượng của ta. Việc nắm thắt lưng địch mà đánh còn giúp quân ta hạn chế thương vong do quân địch không dám dùng máy bay thả bom, pháo, cối dội vào trận địa.
         Sớm 6/4/1968, Trung đội phó Phạm Nhất Linh thúc chúng tôi dậy sớm. Anh nhận định rằng tối hôm qua và sáng nay khác lắm, yên tĩnh hơn. Quân địch sử dụng ít máy bay, ít pháo cối hơn những ngày trước, có khả năng bộ binh của quân địch tấn công vào chốt. Anh giục tiểu đội ăn lương khô, yêu cầu chuẩn bị vũ khí sẵn sàng, đạn AK lên nòng, lắp đạn B40, mở chốt lựu đạn…và tăng cường quan sát từ xa đề phòng địch tấn công bất ngờ.
         Khoảng 9 giờ, các loại pháo, cối của địch dồn dập bắn vào đồi 595. Dứt tiếng nổ, tưởng quân ta đã bị thương vong hết, trong khói, bụi mù mịt những tên lính thủy đánh bộ Mỹ ồ ạt kéo vào trận địa. Khi tốp đầu đến gần chốt, chúng dừng lại và bắn xối xả phủ đầu bằng AR15 và M79. Nhìn những tên lính cao to, tay cầm tiểu liên cực nhanh AR15 và cối cá nhân M79, đeo hai dây đạn chéo sau lưng, các ông thật hồi hộp và căng thẳng. Ông Bào phát hiện trước, giật dây báo động. Trung đội phó Linh ra lệnh chờ địch đến thật gần mới nổ súng. Dứt loạt đạn của địch, ông Bào nhô ra quan sát nhìn rõ cúc áo trên ngực chúng bèn ném lựu đạn, cùng lúc đó ông Thúy bắn trung liên dồn dập vào đội hình địch. Bị đánh bất ngờ với khoảng cách chừng chục mét, địch chạy toán loạn, có tên trúng đạn lao cả người vào hầm của Tiểu đội. Khoảng chục tên lao xuống hố bom trước cửa hầm bị ông Bào ném lựu đạn tiêu diệt hết. Những tên lính ở xa hơn bị các ông dùng súng AK bắn tiêu diệt. Địch la ó ầm ĩ, những tên sống sót xô nhau tháo chạy xuống chân đồi. Nghe tiếng súng, các đơn vị phối hợp bắn chi viện cối 60. Xác địch nằm la liệt quanh đồi 595.
        Chúng lùi ra sau, dùng hỏa lực tập trung bắn vào chốt. Chiến sĩ Thúy giữ trung liên bị thương rất nặng, tiểu đội trưởng Bút bị thương. Dứt tiếng súng, quân địch lại tấn công vào trận địa vài lần nữa, nhưng đều bị tiểu đội chống trả quyết liệt phải bật ra, buổi chiều chúng buộc phải rút về sân bay Tà Cơn.
        Đến tối, sau khi sửa chữa lại công sự và thu dọn chiến trường, tiểu đội 3 họp rút kinh nghiệm chiến đấu. Cả tiểu đội tiêu diệt được 65 tên lính thủy quân lục chiến Mỹ, trong đó trung đội phó Linh diệt 25 tên, tiểu đội trưởng Bút diệt 5 tên, chiến sĩ Thứ diệt 8 tên, chiến sĩ Thúy diệt 17 tên còn ông Bào diệt 10 tên. Vũ khí thu được gồm hai súng phóng lựu M79, một đại liên, mười một khẩu AR15 và nhiều lựu đạn mỏ vịt. Đại đội bổ sung tiểu đội trưởng Đợi thay đồng chí Bút, đồng chí Bùi Trọng Phiệt chiến sĩ trung liên thay đồng chí Thúy và đưa hai đồng chí Thúy, Bút bị thương về tuyến sau. Các anh được phổ biến ngày hôm sau quân địch có thể tấn công quy mô lớn hơn vì thế trung đội phó Linh động viên tiểu đội quyết tâm chiến đấu“còn người còn trận địa”, kiên quyết giữ điểm cao 595.
        Sáng 07/4/1968, khi sương vừa tan thì đồi 595 rung chuyển bởi quân địch dùng máy bay, pháo cối dồn dập bắn phá. Khoảng hơn 9 giờ, địch ngừng bắn, quân địch ồ ạt tấn công vào chốt số lượng đông hơn hôm trước. Cả tiểu đội đồng loạt ném lựu đạn, bắn B40, trung liên và AK, tốp lính đi đầu chết và bị thương rất nhiều. Nghe tiếng AK và B40 của tiểu đội, các đơn vị của ta dùng hỏa lực cối 60, cối 82 bắn chi viện trúng đội hình địch, chúng la hét ầm ĩ tháo chạy về phía sau dùng hỏa lực bắn vào chốt. Khi ngớt tiếng súng, đồng chí Bào bò sang hầm thứ nhất thấy đồng chí Phiệt, chiến sĩ trung liên đã hy sinh còn hai đồng chí Đợi, Linh đều bị thương. Trung đội phó Linh nhắc ông Bào nhanh chóng trở về hầm cùng đồng chí Thứ đánh địch bảo vệ thương binh và giữ vững chốt.
       Khoảng hơn 11 giờ, quân địch lại tổ chức tấn công nhưng vấp phải sự chống trả quyết liệt của tiểu đội cùng hỏa lực cối 60, cối 82 chi viện của Đại đội và Tiểu đoàn nên chúng lại phải rút lui, để lại nhiều xác chết.
Buổi chiều, khoảng 16 giờ quân địch bắn hỏa lực xối xả vào trận địa. Thêm đồng chí Thứ bị thương, cả tiểu đội chỉ còn một mình ông Bào chưa dính đạn. Sau khi sơ cứu, băng bó cho đồng đội và đưa họ về hầm dự bị, ông Bào nhanh chóng trở lại vị trí chiến đấu. Ông gom các loại súng B40, trung liên, AK của đồng đội và hơn hai chục quả lựu đạn để ở các hố chiến đấu. Lúc này tên chỉ huy địch hò hét, đốc thúc quân lính xông lên tấn công. Ông liên tục di chuyển đến các hố chiến đấu, ném lựu đạn tấn công địch là chính, ngoài ra còn sử dụng các loại súng bắn nhưng hạn chế, khiến chúng lầm tưởng quân số chiến đấu của ta còn đông nên không dám tiến vào sâu hơn. Càng về chiều tối sương mù dày đặc. Cả chốt chỉ còn mình ông Bào cố gắng cầm cự. Không thể chiếm được chốt, chỉ huy địch cho quân bò lên kéo xác những tên chết và bị thương. Thấy còn tiếng AK, quân ta lên chi viện, giữ vững trận địa và chuyển thương binh, tử sĩ về tuyến sau.
       Với lối đánh gần và hiệp đồng chặt chẽ, kết thúc hai ngày chiến đấu khốc liệt, tiểu đội 3 đã kiên cường giữ vững chốt, tiêu diệt 205 tên lính thủy đánh bộ Mỹ, bắn cháy một máy bay trực thăng. Riêng ông Bào diệt được 78 tên địch. Tiểu đội được Nhà nước tặng Huân chương Quân công hạng Ba, cá nhân ông Bào được tặng Huân chương Chiến công hạng Nhất. Kết thúc chiến dịch, anh được kết nạp vào Đảng Lao động Việt Nam.
       Ông Bào được cử đi đào tạo trung đội trưởng ở trường quân chính Quân khu Hữu ngạn. Kết thúc khóa học khi sư đoàn chưa có người về đón, ông lại được nhà trường tiếp tục đào tạo chính trị viên đại đội. Ngày 25/8/1970, thượng sĩ Trần Hữu Bào được Nhà nước tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, khi ấy ông tròn hai mươi tuổi. Học xong, về sư đoàn được bổ nhiệm chính trị viên đại đội. Năm 1972, Trung úy Trần Hữu Bào chỉ huy đại đội tham gia cuộc chiến 81 ngày đêm bảo vệ thành cổ Quảng Trị và bị thương nặng khi bị quả đạn M79 của địch nổ gần. Một mảnh đạn bằng hạt thóc nằm sâu ở hốc mắt đến tận bây giờ. Sau khi được phẫu thuật lấy mảnh đạn găm ở gót chân, ông Bào kiên trì tập đi, đến khi nhận quyết định về đoàn 405 an dưỡng thì ông từ chối và xin quay trở lại đơn vị chiến đấu.
       Ông chỉ huy đơn vị tham gia chiến dịch giải phóng Thượng Đức năm 1974 phá vỡ hoàn toàn hệ thống phòng thủ quanh Đà Nẵng, tạo tiền đề để quân ta chiếm thế chủ động trong đại thắng mùa xuân 1975. Hai năm 1976-1978, ông được cử đi học, sau đó trở lại đơn vị tham gia giải phóng Campuchia rồi hành quân bảo vệ biên giới phía Bắc. Sau này, ông là Phó Chủ nhiệm Chính trị Sư đoàn 441, năm 1988 được điều động và bổ nhiệm làm Chủ nhiệm Chính trị Sư đoàn 968. Đến năm 1993, Đại tá Trần Hữu Bào được nghỉ hưu sau 26 năm quân ngũ, lúc ấy ông mới 43 tuổi.
 
 

  Đại tá, Anh hùng LLVTND Trần Hữu Bào (bên phải)
 
          Tác giả: BS. Lê Lợi
Phó Chủ tịch Hội VHNT Trường Sơn

tin tức liên quan