“Chuyện tình Hoa mua tím” - Truyện ngắn của Nguyễn Đại Duẫn

Ngày đăng: 06:23 25/03/2025 Lượt xem: 34
 
Hướng tới Kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất Đất nước
(30/4/1975-30/4/2025).
-------------------
CHUYỆN TÌNH HOA MUA TÍM
Truyện ngắn – Nguyễn Đại Duẫn
 
            Gần một tháng điều trị, ông Hải được xuất viện. Sau khi mổ lấy mảnh đạn trong đầu, sức khỏe của ông đã hồi phục, những cơn động kinh giờ đây không còn, nước da xạm màu sốt rét giờ hồng hào hẳn lên, ông Hải mừng lắm. Ánh mắt rạng rỡ, trí nhớ đã được phục hồi, ông Hải thấy mình như được hồi sinh sau những năm tháng sống trong cảnh lúc nhớ lúc quên.
            Chủ nhật ông Hải, bà Lành lỉnh kỉnh tay xách, nách mang bắt xe buýt lên thành phố. Đây là buồng chuối, này là mấy cân gạo nếp. Ông cứ dặn đi dặn lại bà phải rất cẩn thận với chục trứng gà kẻo không lại vỡ. Như đã hẹn, hai ông bà lên thăm nhà bác sĩ Nam người mổ chính cho ông Hải. Ngôi nhà cách trung tâm thành phố Đồng Hới chừng 3km, nằm gần bờ sông Nhật Lệ. Dòng nước trong mát hiền hòa đang xuôi dòng. Khung cảnh thanh tịnh như ở quê, không ồn ào náo nhiệt. Thỉnh thoảng có vài chiếc xe ô tô vù qua, làm tăng thêm vẻ sinh động của thành phố. Giàn hoa phong lan trước sân đang khoe sắc, những cánh hoa như cánh bướm chập chờn.
            Mở cửa đón khách là y tá Bình, vợ của bác sĩ Nam. Hôm nay bác sĩ Nam đi vắng, hai đứa con đi học thêm nên căn nhà có chút vắng vẻ. Đồ đạc trong nhà không có gì sang trọng lắm. Bộ bàn ghế bằng gỗ nhãn, đánh sơn mài màu cánh gián. Phía trên tủ trà là chiếc tivi chừng 40inch. Bên phải là kệ đựng đầy sách. Nhìn món quà quê ông bà đưa lên, Bình nhẹ nhàng: “Hai bác cứ bày vẽ làm gì. Về chơi với chúng cháu là quý hóa lắm rồi”.
            Cả nhà chuyện trò rôm rả, vẻ như người thân lâu ngày gặp lại. Nhìn lên bàn thờ một hồi lâu, ông Hải ngại ngùng cất tiếng: “Xin lỗi! Cho bác hỏi, người trong ảnh thờ là ai vậy cháu?”. Bình nhìn ông Hải trả lời: “Là ảnh mẹ cháu. Có gì không bác?”. “À! Không có gì đâu. Bác xin thắp cho bà ấy nén hương”. Ông Hải tiến lại bàn thờ thắp hương, cúi đầu chắp tay vái. Ông nhìn trân trân vào tấm ảnh, miệng thì thầm: “Đúng rồi! Đúng là bà đây rồi. Bà Hòa ơi! Tôi có nhìn nhầm không? Đã mấy chục năm, giờ tôi mới được nhìn thấy lại bà!”. Hai hàng nước mắt ông nhỏ xuống gò má nhăn nheo đầy vết đạn, ông lấy tay lau nhẹ cho khô nước mắt rồi quay lại bàn. Nhìn những cử chỉ, thái độ có vẻ khác thường của ông Hải, Bình cất tiếng hỏi: “Vậy bác có quen biết mẹ cháu à?”. Ông Hải giấu đi vẻ xúc động nói: “À! Không. À! Mà cũng có đấy”. Bình thấy ông Hải như muốn giấu giếm đều gì nên gặng hỏi: “Bác là ai? Sao lại biết mẹ cháu. Bác nói thật đi. Cháu đang tìm một người có tên là Hải. Theo như mẹ cháu dặn lại, ba cháu ngày xưa là bộ đội có tên là Hải. Vậy có phải bác là người…” Tay run run, ông Hải cắt ngang lời Bình, miệng lắp bắp: “Chuyện dài lắm cháu. Để khi nào có điều kiện bác kể cho cháu nghe”. Bà Lành nãy giờ nghe chuyện, tuy không hiểu đầu đuôi ra sao nhưng cũng góp vào: “Kìa ông! Thì chuyện như thế nào, có gì ông cứ nói với cháu kẻo cháu nó mong”. Mặt ông Hải tái đi, những vết sẹo nhăn dúm cứ giật liên hồi. Bà Lành thấy vậy sợ ông lại tái phát bệnh cũ nên giục ông ra về.
            Tối hôm đó khi Nam về, Bình kể chuyện ông Hải cho chồng nghe và đem những thắc mắc tâm sự: “Em cứ ngờ ngợ và linh cảm về ông Hải là ba của em. Nhưng không hiểu sao ông ấy lại giấu em những gì biết về mẹ. Hay ông ấy ngại nói ra những bí mật khi có mặt bà Lành”. Nghe vậy Nam nói với Bình: “Thì em cứ về thăm ông Hải một chuyến xem sao!”
                    
***
            Sau cái ngày ở nhà y tá Bình về bà Lành thấy ông Hải như thay đổi tính nết. Ông ít nói, khó ngủ, thỉnh thoảng dậy uống trà một mình. Ông lục tung tủ sách tìm đọc những lá thư cũ, khi thấy bà lại gần thì lúng túng cất đi như sợ bà bắt gặp. Có lúc bà đi chợ về thấy ông đang ghi chép gì đó vào quyển sổ. Rồi ông lẩm bẩm một mình: “Đúng Bình là con của bà Hòa rồi. Cũng khuôn mặt ấy, nước da ấy, mái tóc ấy không lẫn vào đâu được. Vậy là mình đã có manh mối rồi”. Ông nhìn vào khoảng không mông lung, kèm theo một tiếng thở dài.
            Một ngày chủ nhật đẹp trời, Bình tìm về nhà ông Hải. Vườn nhà râm mát bởi những bóng cây nhãn cỗ thụ. Chim trong vườn chuyền cành cất tiếng líu lo. Ngôi nhà nhỏ gọn gàng, thoáng mát. Bà Lành đi chợ, ông Hải ngồi một mình bên ấm trà đang chăm chú lật tìm những tập giấy cũ. Bình hắng giọng: “Cháu chào bác Hải. Bác gái đi đâu mà nhà vắng vậy ạ?”. Ông Hải ngẩng lên, nhìn Bình với ánh mắt vui mừng. Ông cất vội những tập giấy đang xem dở, mời Bình ngồi uống nước.
            Bình trao tập nhật ký cho ông Hải: “Đây là tập nhật ký của mẹ cháu để lại, cháu gửi bác đọc xem?”. Tay run run, ông Hải giở từng trang và chăm chú đọc. Trang nhật ký được ông đọc đi đọc lại, khuôn mặt ông rạng rỡ hẳn lên:
Ngày…tháng …năm 1975
Anh Hải yêu quý!
Vậy là đã một năm chúng mình xa nhau! Sao dạo này không có tin tức gì về anh cả? Chiến tranh đã kết thúc sao anh đi biền biệt đâu chưa thấy về? Em đã sinh con gái và đặt tên con là Bình như anh đã dặn. Dù biết rằng có những vất vả, cay đắng sẽ đến với em, nhưng em vui lắm. Anh Hải ơi!  Nếu anh có mệnh hệ gì em biết nói sao với con đây. Em luôn mong tin và chờ đợi anh trở về. Yêu thương anh nhiều lắm.
Em Hòa
                                                                    
            Ông Hải gập cuốn nhật ký, tay ôm chặt lấy như muốn nó chỉ là của riêng mình. Bình thấy mắt ông ngấn lệ. Ông nắm lấy tay Bình trong cơn xúc động: “Bình! Thật sự con là con của ba rồi. Ba đây con! Từ nay ba đã có con. Con hãy tha lỗi cho ba. Chiến tranh đã gây ra bao nhiêu đau thương mất mát. Có ai mong vậy đâu!” Bằng cả niềm xúc động và nỗi khát khao mong chờ, Bình ôm chầm lấy ông Hải nghẹn ngào nói trong nước mắt: “Mẹ Hòa ơi! Con đã tìm được ba Hải đây rồi. Ba ơi! Con đây. Bình của ba đây..”. Bà Lành đi chợ về thấy vậy  thì vô cùng ngạc nhiên, mặt bà đanh lại, đôi mắt đã trũng sâu nay thấy như càng trũng thêm. Đợi cho bà bình tĩnh trở lại, ông Hải kể hết sự tình cho bà nghe, bà Lành à lên một tiếng: “Tôi biết ngay mà. Tôi cứ ngờ ngợ nhận ra từ cái ngày gặp y tá Bình. Thấy đôi mắt ông và cô ấy giống nhau như tạc”.
            Tay run  run cầm li nước, Bình chậm rãi kể chuyện mẹ Hòa: “Con nghe mẹ kể lại, ngày mẹ sinh con ra thì mẹ không còn liên lạc được với ba. Sau ngày đất nước thống nhất không thấy tin tức gì về ba cả. Nghe người ta đồn ba   đã hi sinh trong một trận đánh cuối cùng vào giải phóng Sài Gòn. Mẹ buồn nhớ ba cứ khóc hoài. Một hôm, ông tổ chức cán bộ của phòng giáo dục huyện gọi mẹ lên: “Cô nói đi, đứa con này là của ai?”. Mẹ nhìn thẳng vào mặt ông tổ chức cán bộ nói: “Đứa con này là của tôi, không của ai hết. Ba nó là bộ đội liệt sĩ!” Ông tổ chức cán bộ phòng giáo dục chì chiết từng lời: “Hừ! Đã vô tổ chức, vô kỷ luật hoang thai lại còn ngoan cố. Lại còn đổ lỗi cho bộ đội liệt sĩ nữa. Cô sẽ biết hậu quả như thế nào nếu khai man”. Rồi sau đó một thời gian, mẹ có quyết định điều động công tác về làm thư viện một trường học miền núi xa xôi ở xã Trường Sơn khi con vừa hai năm tuổi. Nghe đâu ngày đó ông tổ chức cán bộ phòng giáo dục huyện thích mẹ nhưng mẹ không màng đến. Ông ta đã có vợ con ở nhà. Vợ ông ta không sinh được con trai nên ông ta cảm thấy chán nản. Thấy mẹ có chút nhan sắc, ông ta muốn tán tỉnh mẹ, mong kiếm đứa  con trai. Không thỏa mãn, ông ta trả thù mẹ, cho thuyên chuyển lên trường miền núi xa xôi, hẻo lánh. Thật là một sự trả thù, một cách hành xử vô nhân tính, ích kỷ quá ba nhỉ!” Ông Hải không nhìn Bình, ánh mắt như đang nhìn về phía nào đó xa xăm: “Vậy bà ngoại giờ còn hay mất, cậu Thái nay ra sao?”. “Dạ, khi miền Nam giải phóng, cậu Thái  được điều động vào Tây Nguyên dạy học, rồi lấy vợ và lập nghiệp trong đó”. Hớp ngụm nước cho đỡ khô giọng, không để ông Hải đợi lâu, Bình tiếp tục kể: “Đời sống lúc bấy giờ quá cực khổ, thiếu thốn trăm bề, gạo không đủ ăn, áo không đủ mặc. Một mình mẹ bươn chải nuôi con. Khí hậu miền núi khắc nghiệt, mẹ ốm yếu tong teo như cành xoan thay lá, từng cơn sốt rét hành hạ mẹ. Tuy vậy mẹ cũng không để con thiếu thốn thứ gì. Đêm về khi con học bài xong đi ngủ là mẹ lại lấy thư cũ của ba ra đọc, nước mắt ướt đẫm lên cả trang giấy, lặn vào sương khuya. Thế rồi năm ấy, một mình mẹ trèo lên mái nhà để lợp lại mái tranh bị tốc sau cơn lốc xoáy của gió Lào khô khốc. Không may mẹ trượt ngã rơi từ mái nhà xuống, đầu đập vào thân cây và qua đời. Lúc ấy con cứ ngơ ngác như gà con lạc bầy chẳng hiểu gì. Cậu Thái muốn đưa con vào Tây Nguyên, nhưng bà ngoại đã giữ con lại. Năm tháng trôi qua, hai bà cháu dắt díu nhau cơm cháo qua ngày. Khi con đi học Trường cao đẳng Điều dưỡng của tỉnh, bà ở nhà một mình thui thủi, chăm con gà, trồng cây rau đắp đổi qua ngày. Rồi một đợt đi thực tập tại một bệnh viện ở miền Nam, ở nhà bà bị đột quỵ và qua đời. Ra trường con xin về làm việc nơi chỗ ngày xưa mẹ công tác để tiện bề hương khói. Thế rồi trong một đợt tập huấn, con quen anh Nam, thông cảm hoàn cảnh của con với tình yêu thương, con và anh Nam thành vợ chồng. Anh Nam xin con về làm trong bệnh viện thành phố”. Bình ngừng lại vài giây, nắm lấy bàn tay gầy guộc, sờ lên những vết sẹo nhăn nheo trên gò má, lau những giọt nước mắt cho ông Hải, rồi kể tiếp: “Ngày đó, con cứ hỏi mẹ về ba. Mẹ bảo khi nào lớn lên rồi mẹ sẽ nói cho con hiểu. Con buồn lắm, đi học bạn bè toàn nói con là con hoang. Chúng chẳng muốn chơi với con. Con cứ thế lớn lên trong âm thầm lặng lẽ. Nhưng khi nghe mẹ nói con là con của bộ đội liệt sĩ, con mới thấy tự hào về ba và thương mẹ hơn. Mẹ vội vã ra đi mang theo tung tích về ba, về ông bà  nội nên con không có cơ sở tìm kiếm. Mấy mươi năm qua con sống trong đợi chờ. Đợi chờ một vận may nào đó. Vậy là vận may hôm nay đã thành sự thật”. Ông Hải nắm chặt tay con gái, đôi mắt ông nhìn con với vẻ tự tin: “Thôi con. Chuyện đã qua rồi. Bây giờ ba đã có con, có cháu, gia đình ta đã đoàn tụ. Nơi suối vàng chắc mẹ Hòa cũng ngậm cười”.
 
***
            Ngày giỗ của mẹ, Bình cùng cả nhà đưa ông Hải, bà Lành ra nghĩa trang thắp hương. Mộ bà Hòa đã được vợ chồng Bình đưa về Nghĩa trang thành phố. Ngôi mộ xây gạch, ốp đá cũng đủ ấm áp cho người quá cố, vui lòng người trên dương thế. Phía đầu mộ là tấm bình phong, bức ảnh thờ bà Hòa tươi cười như đang chào đón người thân. Phía dưới mộ hai cây mua đang nở hoa màu sen tím. Ông Hải thắp hương khấn vái bà Hòa xong, đưa tay sờ lên di ảnh trong giây phút lặng yên, chỉ thoảng nghe tiếng hàng thông vi vu trong khu nghĩa trang. Ông Hải ngồi xuống bên hai cây hoa mua, tay nâng những cánh hoa đang rung rinh trong gió như những cánh bướm chập chờn. Phá tan không khí tĩnh mịt, Bình cất tiếng: “Ba ạ! Khi còn sống, mẹ thích hoa mua lắm. Nghe cậu Thái nói, đó là câu chuyện tình yêu lãng mạn của mẹ. Con chưa được nghe bao giờ”. Nhìn con gái yêu, nhìn cánh hoa mua tím đang khoe sắc, ông Hải lặng đi trong nghẹn ngào, tự nhiên những giọt nước mắt cứ chảy xuống lăn dài trên hai gò má nhăn nheo đầy vết sẹo, những kỷ niệm ngày nào bỗng ùa về.
            Năm học thứ ba của Trường Sư phạm tỉnh, Hải được phân về thực tập tại trường phổ thông cơ sở Xuân Ninh. Một chiều vào thư viện mượn sách, Hải gặp Hòa. Hòa có nước da trắng hồng, má lấm tấm vài nốt tàn nhang, đôi lông mày cong vút tạo nên vẻ đẹp trên khuôn mặt trái xoan xinh xắn. Hòa nhìn Hải mỉm cười để lộ hàm răng trắng đều trông rất duyên, nhẹ nhàng cất tiếng: “Cậu là sinh viên mới về thực tập à?”. Hải nhìn Hòa không trả lời, gật đầu. “Vậy cậu mượn sách gì?”. Hải nheo mắt cười tinh nghịch: “Dạ! Tắt đèn!” Hòa dò tìm danh mục sách rồi nói: “Truyện này thư viện không có, nhưng ở nhà chị có đấy. Nếu em cần mai chị lấy về cho em mượn”. “Vậy thì quý hóa quá. Em đang soạn bài phân tích nhân vật ‘chị Dậu’ trong tác phẩm ‘Tắt đèn’ mà chưa tìm được sách. Em đang rảnh, đợi chị về cùng rồi em mượn mấy hôm”.
         Thỉnh thoảng, Hải ghé phòng Hòa chơi, mượn sách. Phòng nhỏ nhưng đồ đạc được Hòa sắp xếp ngăn nắp, gọn  gàng lắm. Hải thích nhất là tủ sách của chị, sách được phân loại, ghi chú nên rất dễ tìm. Lâu dần tình cảm hai người trở nên thân thiết lúc nào không hay. Hải thấy mến chị, thích cái nụ cười hiền thảo, bàn tay thon dài, mái tóc đen mượt thoảng thơm mùi hoa bưởi. Nhiều khi Hải lấy cớ sang mượn sách để được ngắm thân hình “thắt đáy lưng ong” của Hòa.
          Một dạo, trường tổ chức đi tham quan dã ngoại. Nơi tham quan là núi Thần Đinh, một ngọn núi có độ cao chừng 400m so mực nước biển. Càng đi lên cao, không khí càng tĩnh mịch, cây cối rậm rạp, dây leo chằng chịt. Phía trên đỉnh núi có một ngôi chùa cổ, hoang sơ và phủ đầy rêu phong. Mọi người cùng trèo lên đó để chiêm bái. Phía dưới chân núi dòng nước sông Rào Đá trong xanh lững lờ trôi. Hòa thấy độ dốc cao không trèo lên được vì thấy trong người hơi mệt. Hải tình nguyện ở lại để chăm sóc cho Hòa. Dưới bóng râm của cây cổ thụ hai chị em chuyện nhà, chuyện cửa vui vẻ. Bất chợt Hải hỏi: “Chị Hòa đã có người yêu chưa?”. “Chưa! Sao tự nhiên em lại hỏi?”. “Thấy chị xinh đẹp, đảm đang chắc là lắm chàng theo mới phải. Hay là... là... chị chờ em”. “Nói chi bậy bạ. Chị lớn tuổi hơn em mà. Người ta nghe được họ cười cho thối mũi”. “Kệ họ! Em không biết đâu”. Nói rồi Hải chạy dọc bờ sông tìm hái một bó hoa mua tím. Bằng động tác cầu hôn, Hải quỳ chân trao bó hoa tặng Hòa. Hòa cầm bó hoa mỉm cười: “Lãng mạn như phim vậy. Cảm ơn nhé!” Gần trưa, đoàn dã ngoại cũng xuống núi. Thấy chị Hòa nâng niu bó hoa mua, Thái cất tiếng: “Trời đất, thiếu gì hoa đẹp mà chị thích mấy bông hoa dại này. Vứt đi cho nhẹ xách”. Nói rồi Thái cầm bó hoa vứt xuống dòng sông. Hòa ngẩn người lặng nhìn bó hoa trôi dần, trôi dần rồi Hòa ngồi thụp xuống khóc như trẻ con. Hải dỗ mãi Hòa mới nín và lặng lẽ cùng về chỗ để xe. Đang đi, bỗng chân Hòa vấp vào hòn đá, đôi dép đứt quai, Hòa trượt dài trên đám sỏi sóng soài. Ống quần lụa rách toạc một đám, lấm lem bụi đất, chân rớm máu, mắt cá sưng to. Thái chạy lại xe lấy ít nước sạch để  rửa cho chị. Chợt nghĩ ra điều gì, Hải chạy loanh quanh tìm hái nắm lá mua, rửa sạch, vẩy cho ráo rồi nhai lấy bã đắp cầm máu, một ít đắp vào mắt cá chân, lấy khăn buộc lại. Thái xách đồ, Hải cõng Hòa ra xe. Hải nghe tiếng chị Hòa thở gấp, tiếng xuýt xoa khe khẽ trên lưng làm cho Hải thấy thương chị lắm. Mấy ngày sau, chân Hòa đi lại được, Hải nhìn chị mỉm cười. Hòa nhớ lại chuyện, e thẹn mặt đỏ lựng lên.
          Ngày kết thúc đợt thực tập, đoàn lên xe ra về, Hải và Hòa bịn rịn chia tay, hai bàn tay vẫy vẫy, ánh mắt Hòa vợi nhìn khi Hải lên xe, khuất dần. Tháng sau, Hải đạp xe đèo hai cây mua về tặng chị Hòa. Hai chị em lúi húi trồng vào bồn hoa trước sân nhà nội trú của trường. Rồi Hải kể về truyền thuyết hoa mua cho Hòa nghe: “Tương truyền, ngày xưa có một đôi vợ chồng yêu nhau say đắm. Nhưng vì tình yêu Tổ quốc đang kêu gọi, người chồ ng phải tòng quân ra trận. Người vợ tiễn chồng đi với những giọt nước mắt. Và những giọt nước mắt ấy đã hóa thân thành những bông hoa mua tím”. Ngừng vài giây Hải nói tiếp: “Chị Hòa biết không hoa mua tím mang ý nghĩa biểu tượng về lòng chung thủy trong tình yêu. Đó là một tình yêu sắt son, mãnh liệt. Người ta tin rằng hoa mua là hoá thân từ những giọt nước mắt của người phụ nữ lúc tiễn chồng ra trận. Đó là sự chờ đợi, nhớ thương da diết của tình yêu chung thuỷ. Và cũng là hi vọng mãnh liệt có một ngày trở về đoàn tụ. Nếu Hải đi bộ đội, chị Hòa có chờ đợi như vậy không?”.  Hòa ngạc nhiên hỏi Hải: “Em đi bộ đội thật sao?”. Nói rồi mắt Hòa nhìn không chớp vào cái miệng có duyên của chàng, mà trong đầu suy nghĩ mông lung...Từng ngày, từng ngày cây mua lớn lên xanh tốt, ra hoa nở tím cả một góc sân nội trú, trông thật đẹp.
          Chiến tranh chưa kết thúc, Mỹ cút nhưng ngụy chưa nhào, đầu năm 1974 Hải tình nguyện nhập ngũ vào bộ đội. Sau hai tháng huấn luyện cấp tốc, đơn vị cho những chiến sĩ gần nhà về nghỉ phép hai ngày chia tay gia đình để lên đường vào Nam đánh giặc. Khoác ba lô trên vai, Hải đi như chạy đến bến xe. Bến vắng ngắt bóng người, xe đã xuất bến. Không còn chiếc xe nào, buồn bã vì không kịp xe để về. Trời tối dần, Hải tính bài đi bộ, dự tính gần sáng cũng về đến nhà. Đi được hơn chục cây số, trời bỗng ào cơn mưa. Hải vào nấp mưa ở quán nước bên đường. Trời tối đen như mực, nhì nhằng sấm sét làm Hải cồn cào sốt ruột. Rồi mưa cũng tạnh, những bước chân của Hải gấp gáp. Đến ngã ba đường đáng lẽ anh rẽ sang phải, nhưng không hiểu sao bước chân Hải lại tìm đến con đường về trường của Hòa. Gặp nhau hai chị em mừng hết nỗi. “Sao em không về  nhà với bố mẹ mà lại về đây?”- Hòa nhìn Hải hỏi. Hải tiến lại gần như cố ý nói thầm vào tai Hòa: “Em về nhà phải đi bộ cả đêm, cũng không tiện. Mà nhà có ai nữa đâu. Em mồ côi ở với bác họ từ nhỏ. Em về với chị, chị không thích thì để em đi”. Mặt Hòa tự nhiên đỏ bừng lên: “Thôi! Khuya rồi còn đi đâu nữa”. Cũng đã hơn mười giờ đêm. Hòa nhìn Hải ngại ngùng: “Hôm nay chủ nhật, mọi người ở nội trú về hết, không biết gửi cậu ngủ nhờ ở đâu”. Nói rồi Hòa nhắc ghế ra sân, hai chị em cùng ngồi trò chuyện. Thỉnh thoảng ngọn gió ùa qua xua đuổi những con muỗi vo ve. Rồi hai người nhìn nhau lặng lẽ bên cây mua tím đang rạo rực nở hoa. Xua đi không khí im lặng, chị Hòa cất tiếng: “Em mới đi mấy tháng mà thấy chững chạc lên nhiều”. “Đời lính rèn luyện nhiều nên vậy đó chị”- Hải tự tin trả lời. Và rồi nhìn hai cây mua Hải nói: “Em đi rồi chị ở nhà chăm sóc cây mua chu đáo nhé. Coi như đang có em bên cạnh chị”.
           Sương khuya như rây bột lên đầu, tiếng gà đã eo óc báo sang canh. Hòa nghĩ: “Chẳng lẽ thức cả đêm nay sao?”. Giục Hải vào nhà, Hòa ngần ngại nói: “Chỉ được một chiếc giường, thôi ưu tiên cho người lính sắp ra trận, chị nằm nền nhà cũng được”. “Không được! Chị là phụ nữ phải ưu tiên”. Hai người giằng co nhau, thất thế bị ngã ngửa xuống giường, người Hải theo đà nằm đè lên người Hòa. Hai khuôn mặt sát lại gần nhau hơn, hai con tim đập loạn nhịp. Đôi môi tìm nhau, những nụ hôn ngọt ngào dâng hiến. Con sóng tình ái dào dạt vỗ, có lúc trào lên cuồn cuộn không cưỡng lại được. Hòa như chợt tỉnh đẩy người Hải ra, đôi má đỏ lựng, giọng nói ngượng nghịu: “Tôi có mơ không. Em làm gì thế này?”. Hải choàng tay ôm chặt lấy người Hòa: “Em yêu chị nhiều lắm!” Phút giây ngượng ngùng qua đi, Hòa cũng ôm chặt Hải thủ thỉ: “Chị cũng yêu em nhiều lắm, nhưng không nói nên lời!” Tự nhiên Hải đổi cách xưng hô rất mau lẹ: “Anh biết, nhưng không sao đâu. Tình yêu không có khoảng cách và tuổi tác”. Nói rồi hai người xiết chặt lấy nhau với tình yêu nồng nàn, tha thiết mà lâu nay họ chưa trao cho nhau được.
           Khoác ba lô trên vai, Hải ôm chặt Hòa, những nụ hôn nồng nàn chia tay: “Nếu có con em đặt tên là Bình nhé. Nhớ chăm sóc hai cây mua, kỷ niệm tình yêu của chúng mình. Đợi ngày anh về!” Hòa nhìn Hải với ánh mắt đầy âu yếm: “Vâng! Anh đi mạnh giỏi. Em đợi anh!”. Bóng Hải khuất dần vào hàng cây. Mắt Hòa nhòa lệ.
           Ông Hải lặng đi vài giây rồi cất tiếng nói với con gái: “Đó là câu chuyện tình của ba và mẹ. Cây mua tím như là nhân chứng cho tình yêu của hai người”. Bình hỏi ông Hải như trách móc: “Vậy sao ba mất tin tức từ bấy đến giờ?”. Ông Hải lấy tay xoa nhẹ lên đầu con gái: “Chiến tranh mà con. Mùa xuân 1975, trong một trận đánh vào giải phóng Sài Gòn, ba bị thương nặng. Mảnh quả đạn pháo đã  găm vào mặt, vào đầu làm cho ba khi nhớ, khi quên. Tại trại điều dưỡng thương binh, dì Lành khi đó làm hộ lý đã tình nguyện lấy và chăm sóc ba. Sau một thời gian, mảnh đạn đã nằm yên trong đầu nên dì Lành đưa ba về quê. Ba bị nhiễm chất độc da cam, chiến tranh đã không cho ba với dì Lành một đứa con. Thương dì Lành, ba nói dì rẽ ngang nhưng bà không chịu. Ba cảm ơn và thương yêu bà ấy nhiều lắm”.
 
***
          Mâm cỗ bưng lên, mọi người cùng xắn tay dọn lên bàn thờ. Ông Hải đưa bó hoa mua hái ở mộ bà Hòa về cắm vào lọ. Cánh hoa màu tím sen rung rinh như có bàn tay bà Hòa đang vẫy chào mọi người. Ông Hải thắp nén nhang làm lễ khấn vái người quá cố. Tay ông run run, mắt ông nhòe đi khi nhìn tấm ảnh thờ của bà Hòa.
         Hai đứa cháu ngoại chạy lại ôm lấy ông Hải, thủ thỉ chuyện trò. Không khí gia đình hôm nay thật đầm ấm khi mọi người được sum họp đông đủ.
        Ngoài trời những cơn gió nam đang ùa về, xào xạc tàu chuối. Đầu hồi nhà cây phượng đang xòe những chùm hoa lửa. Tiếng ve râm ran báo hiệu hè đã về.
                                                                                               
Nguyễn Đại Duẫn
Hội viên Hội VHNT Trường Sơn
ĐT: 0977194533

 
tin tức liên quan