ĐÀ NẴNG, MÁU, NƯỚC MẮT VÀ HY VỌNG
Bùi Công Định
Người bạn rất thân đã rất lâu mới gặp, mái tóc bạc phơ. Mừng quá, bạn còn khỏe, cùng nhau đi dọc bờ sông Hàn, nhìn dòng sông êm đềm trôi.
Thế mà đã năm mươi năm ta là công dân Đà Nẵng. Biết bao kỷ niệm chầm chậm quay về.
-
Ký ức hào hùng:
Máu nhuộm đỏ Cồn Dầu năm 1968, đồng đội ngã xuống tay vẫn cầm chặt súng. Trên rừng Trường Sơn, đỉnh đèo Hải Vân, đất trời rung động, hàng hàng chiến sĩ xông lên dưới mưa bom, bão đạn quyết quét giặc khỏi Thượng Đức…Và cái ngày vang dội nhất, bừng sáng nhất là khi ta cầm cờ đỏ sao vàng của Tổ quốc, cờ nửa đỏ nửa xanh của Mặt trận Giải phóng miền Nam Việt Nam băng qua cầu Trịnh Minh Thế (nay là cầu Nguyễn Văn Trỗi, Trần Thị Lý) vào cắm trên tòa thi chính thành phố Đà Nẵng. Biết bao là máu và nước mắt đổ xuống cho ngày 29 tháng ba.
Chợt nhớ, cái làng chài nhỏ nhoi nằm cuối sông Hàn, bên chân đèo Hải Vân được nhiều đời vua Trần, vua Lê, các vua Nguyễn xây dựng thành pháo đài để giữ nước. Tuyệt đỉnh thông minh chiến lược. Nơi đây đất hiểm, biển sâu canh giữ Tổ quốc.
Một trăm sáu mươi ba năm trước, đế quốc phương Tây Pháp, Tây Ban Nha dùng chiến thuyền đánh chiếm hầu hết đất đai châu Phi, châu Mỹ rồi đến đây quyết nô lệ đất nước ta, vào Đà Nẵng qua cửa sông Hàn, lập đồn Sơn Trà. Quân dân xứ Quảng dưới cờ của tướng oai hùng Nguyễn Tri Phương đánh cho tan tác, giặc phải bỏ chạy, xác còn chôn ở vũng Thùng dưới chân núi Sơn Trà.
Hai năm chống giặc phương Tây, một vạn chiến sĩ, đồng bào hy sinh, vua ta cho quy tập về Nghĩa Trũng, vùng đất thiêng bên sông Hàn để đời đời con cháu khói hương ghi nhớ.
Bảy mươi năm trước, tháng 8 năm 1945, cờ đỏ sao vàng tung bay trên nóc nhà Thị chính. Cùng cả nước, dưới sự dẫn dắt của vị lãnh tụ thiên tài Hồ Chí Minh, quân dân đất Quảng đứng lên khởi nghĩa, giành Chính quyền. Chưa quá nửa năm, quân Pháp theo chân quân Anh lên chiếm Đà Nẵng. Theo lệnh của Trung ương, Vệ quốc đoàn, Tự vệ thành dạt ra ngoại ô, vây chặt quân giặc. Chín năm kháng chiến trường kỳ, quân Pháp chỉ ngấp nghé đến bờ bắc sông Thu Bồn. Hàng trăm trận đánh, Hải vân, Bồ Bồ…vây giặc trong thành Đà Nẵng.
Tháng 7 năm 1954 theo Hiệp nghị Giơ ne vơ, quân ta ở Khu V tập kết ra Bắc.
Biết bao là nước mắt. Chiến sĩ ra đi, dân ở lại. Đà Nẵng lại chìm trong máu những người kháng chiến cũ.
Sáu mươi năm trước, đứng trước nguy cơ sụp đổ của ngụy quyền Sài Gòn, đế quốc Mỹ với binh hùng, tướng mạnh nhất địa cầu đổ quân lên bãi cát Nam Ô-Đà Nẵng cứu Nguyễn Văn Thiệu. Căn cứ Hải Lục Không quân khổng lồ lớn nhất Đông Nam Á, rợp trời máy bay, đầy biển tàu chiến, chật đất lính đủ hạng cọp, beo nằm trên đất Đà Nẵng. Mười năm, những trận chiến liên hồi, khói súng ngày đêm không bao giờ ngớt. Những đoàn quân vượt Trường Sơn tiến vào Nam. Lớp trước hy sinh, lớp sau tiếp bước. Người trước ngã xuống, người sau xông lên cho đến ngày toàn thắng. Biết bao là xương máu.
Nghĩa trang chiến sĩ trải dài từ núi Đại Lộc xuống bãi cát ven biển Non Nước, Ngũ Hành Sơn... Đến đâu cũng thấy những dãy mồ Liệt sĩ lớp lớp như đứng trong hàng quân diễu hành.
Những ngày đầu giải phóng, cùng nhau toàn dân rỡ núi dây thép gai, dọn bom mìn, xây thành phố.
Đói rách thiếu thốn không quản, Chính quyền tìm đất lập trường Đại học, gom góp từng đồng để xây cầu qua sông, xóa cảnh “Tối người quận Ba không thể qua quận Một”. Mời gọi những người giỏi nhất vẽ nhà hát Trưng Vương, lại quyên góp nguồn lực từ dân để xây thành, nguy nga nhất nhì đất nước. Lập đội bóng, sửa sân Chi Lăng, không Chủ nhật nào vắng người xem, vang tiếng reo hò. Mở mang vùng đất phía Đông bằng những cây cầu qua sông, biến dải đất nhà chồ thành thiên đường du lịch. Khách Mỹ, khách Tây bốn phương đi máy bay, tàu biển đến để xây hòa bình. Mở đường lớn từ đèo Hải Vân đến Hòa Cầm qua thành phố; giải tỏa, dọn dẹp ba ngàn ngôi nhà. mấy vạn hộ dân để chỉnh trang thành phố. Cả nước chỉ có nơi này làm được. Tự hào biết bao nhiêu.
Được lòng dân là có tất cả.
Nhà cao chọc trời
Phố xá nguy nga
Núi sông như mới tinh khôi
Người trẻ người già phơi phới.
Sóng sông Hàn, mây Hải Vân, đỉnh Sơn Trà, đất mẹ bao la.
Biết bao hy vọng
Nhìn đâu cũng ngời ngời hạnh phúc.
Kỳ vọng, mong ước của tiền nhân.
Cùng bạn đứng nhìn sông Hàn, nhớ bài thơ năm trước:
“Dừng lại người ơi
Cho tôi xuống nơi này
Đứng giữa nhịp cầu dòng sông đang chảy
Nắng chang chang phố vàng trong gió mặn
Rực rỡ cảnh trời tầng ô cửa cao cao
Nơi ấy là đâu
Mà bao năm thiếu thời vẫn hỏi
Những con người giàu trí từ đây đi
Gặp nhau không, hay họ đã rời
Đà Nẵng.
Đằng sau kia
Nhà phố Hội An bời bời cát trắng
Còn đây
Sông Hàn cứ chảy trôi mau
Ta đứng bâng khuâng nhìn nước
Giọt nào của dòng Tranh suối lớn tên Trường
Giọt nào đẫm cây lá rừng thẳm Trường Sơn
Có đến cùng ta ra biển lớn…”.
-
Còn đó những trở trăn
Nhìn đường Bạch Đằng đẹp, người người sang trọng, bất chợt lại nhớ khi đi khám bệnh ở Bệnh viện hiện đại nhất thành phố, gặp cô Thanh niên xung phong năm xưa ở Công trường Hai tháng Chín. Cô gái trẻ năm ấy, nay đã là bà già, sống giữa phố thị tráng lệ mà lắm bệnh! Cô cầm trong tay quyển sổ cuộn tròn: “Bác sĩ bảo ở đây thiếu thuốc, phải mua thêm ở ngoài, tháng nào cũng thế. Tiền đâu mà mua!”. Nghe xót lòng.
Đến quán cà phê xanh trên đường Nguyễn Tất Thành, nơi nhìn ra vịnh đẹp, nước biển xanh như cổ tích, ông bạn Kiến trúc sư già, đầu chưa bạc, than thở: “Hoang hóa đổ nát trong trung tâm thành phố bao năm. Không ai dám quyết, bộ phận này bảo của cơ quan kia…”.
Anh chiến sĩ Biệt động ngày nào vào sinh ra tử, nhanh như sóc, thuộc đường phố như lòng bàn tay, tóc bạc trắng, nay đi lại phải nhờ gậy, ngậm ngùi: “Giữa sân Chi Lăng, nơi Liệt sĩ Lê Độ bị quân thù sát hại, máu đào thấm đất. Lịch sử oai hùng là thế, chưa biết nơi ấy sẽ thế nào. Thảm quá!”.
Người bạn là lãnh đạo lớn, quyết bao việc hệ trọng vừa nghỉ tháng trước, nói: “Luật quy định, cơ chế nó là thế”.
Chàng sinh viên Bách khoa năm thứ tư, kiêm quản lý quán cà phê gặp lại thầy cũ Kiến trúc sư từng khôi phục khu nghỉ thượng đẳng Ba Nà, nhanh tay thân chinh bưng khay cà phê mời các bậc cao niên, xin góp một ý: “Trước đây cái gì không làm được, những nghèo nàn, lạc hậu đều đổ cho thực dân đế quốc. Nay đổ cho ai?”.
“À! Đổ cho ai?”.
-
Hy vọng
Chợt nghĩ, Hải Vân quan vời vợi, Thu Bồn uốn lượn như rồng, Trường Sơn một dải xanh mơ, biển Đông mênh mông sóng bạc đầu, Sơn Trà hẳn là thiên ngọc. Con người tập hợp cả nước, cần cù, chất phát, vô cùng anh dũng, cực kỳ thông minh. Thế gian này nơi nào bằng?
Vừa thấy ông Chủ tịch đứng trước các Nhà báo và Dân trên đường Ngô Gia Tự (tên nhà cách mạng lừng danh), nói: “Đúng hẹn, dân giao toàn bộ mặt bằng Sân Chi Lăng thế là ổn rồi, tính tiếp”.
Ông Bí thư đỉnh đạc giới thiệu với các nhà đầu tư giàu có đến từ châu Á, châu Âu, châu Mỹ về những dự định lớn cho thành phố tương lai.
Tốp thanh niên trẻ đẹp như những tượng thần Hy La quần đủ màu, áo kẻ, vai mang ba lô đựng máy tính bảng, ồn ào bước vào sảnh lớn Trung tâm phát triển phần mềm nguy nga trên cửa sông Hàn.
Đà Nẵng!
Máu, nước mắt và hy vọng.
Năm mươi năm tiếp sau đang chờ!
Tháng 3 năm 2025
Kỹ sư Bùi Công Định
Hội viên Hội VHNT Trường Sơn