---------------------
“HƯƠNG CHÈ KÊ” – MÙI HƯƠNG CỦA KÝ ỨC VÀ TÌNH QUÊ
Đỗ Ngọc Thứ
Trong dịp tham gia trại viết văn TS-3 do Hội Văn học Nghệ thuật Trường Sơn Việt Nam tổ chức tại Yên Xuân - Hà Nội, nhà văn Nguyễn Hoàng Nguyên, hội viên Hội VHNT Nam Định (nay là Ninh Bình) gửi tôi bản thảo tập tản văn “Hương chè kê”. Cầm bản thảo trên tay, tôi có chút ngỡ ngàng trước khả năng lao động sáng tạo của anh. Bởi mới năm 2023, anh xuất bản tập ký “Nhớ lắm Trường Sa” mà nay đã có tập bản thảo đầy đặn với 32 tản văn mang theo hồn cốt quê hương với giọng điệu giàu cảm xúc và sự suy tưởng.
Đọc “Hương chè kê”, dễ nhận thấy, Nguyễn Hoàng Nguyên là con người có trái tim nhân hậu, đa tài, đa cảm và luôn nặng lòng với quê hương, xứ sở. 32 tản văn là 32 sợi chỉ mềm mại với 32 sắc màu đan vào nhau để tạo thành bức thảm ký ức thấm đẫm tình quê, tình người và cả nỗi niềm thao thức trước những đổi thay của cuộc sống. Dù mỗi tản văn mang một sắc thái, một cảm hứng riêng – một nỗi nhớ, một chiêm nghiệm hay một dòng hoài cảm… nhưng tất cả đều gặp nhau ở một điểm: chất thơ toát lên từ những điều bình dị nhất.
Mở đầu tập sách là tản văn “Hương chè kê”, đây cũng là tên tập sách. Tản văn “Hương chè kê” là một bản hòa tấu nhẹ nhàng của ký ức, gợi nhắc về món ăn dân dã mà đậm đà tình cảm của người miền Bắc nói chung, Nam Định - quê anh, nói riêng. Dưới ngòi bút tinh tế và đầy hoài niệm của Nguyễn Hoàng Nguyên, “Hương chè kê”, không chỉ mang hương vị của một món ăn mà còn chất chứa trong đó tình cảm gia đình, không khí Tết cổ truyền và cả sự gian khó của một thời bao cấp. Những “mùi thơm của kê, vị ngọt của đường phên, vị cay của gừng” được miêu tả đầy xúc cảm, gợi lên những hình ảnh thân thuộc của bếp lửa ngày đông, của bà, của mẹ, của một thời quá vãng, ấm áp tình người. Hạt kê bé nhỏ lại mang theo cả một trời ký ức, khiến người đọc như được sống lại những ngày tháng xưa cũ – một cảm giác vừa ấm áp, vừa tiếc nuối. “Hương chè kê” không chỉ là câu chuyện về một món ăn mà còn là tiếng nói da diết về nỗi nhớ quê hương, về những giá trị truyền thống đang dần bị lãng quên giữa guồng quay hiện đại. Khi tác giả viết: “mùi hương chè kê như đã thấm vào máu thịt tôi và ngân lên da diết mỗi độ xuân về”, đó không chỉ là tình cảm cá nhân mà còn là nỗi hoài vọng của cả một thế hệ từng sống giữa thời gian chuyển mình của đất nước.
Hồn quê - (Ảnh minh họa)
Nếu “Hương chè kê” là một khúc hoài niệm đằm thắm, thì “Chiều Vị Xuyên” lại mang sắc thái trầm tư, phản ánh tâm thế của một con người đang lặng nhìn cuộc đời trong một chiều muộn nơi phố thị. Hồ Vị Xuyên – không gian quen thuộc của thành phố Nam Định, hiện lên thanh bình, nhưng trong cái bình lặng ấy lại chất chứa nỗi cô đơn và những suy tư dai dẳng. Từ câu chuyện về những cựu quân nhân, đến hình ảnh quả táo tây đỏ au nhưng nhạt nhẽo – tác giả đã khéo léo sử dụng những biểu tượng đời thường để phản ánh một nghịch lý xã hội: cái bề ngoài hào nhoáng không phản ánh đúng giá trị thực. Lời kết: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn, nhớ rồi mà sao vẫn cứ dại, bao giờ mới khôn đây?” vang lên như một tiếng thở dài đầy trăn trở, không chỉ với bản thân mà còn với xã hội. Ở “Chiều Vị Xuyên”, người đọc bắt gặp những nỗi niềm chung của lớp người từng trải: hoài niệm về một thời trai trẻ, bức xúc trước những bất công thầm lặng, và khát khao được sống thật với giá trị của chính mình. Những cốc bia cám, quả táo đỏ, lát khoai Hoàng Long… đều là chất liệu bình dị mà đậm chất nhân văn, mang theo triết lý sâu xa về đời sống.
Có lẽ, do được đào tạo cơ bản, cộng thêm chút năng khiếu “trời cho” nên khả năng sử dụng câu chữ của Nguyễn Hoàng Nguyên khá hoạt bát, sinh động. Đúng thôi, nhưng đó chưa phải là tất cả. Tôi nghĩ, chính những năm tháng khoác trên mình bộ quân phục “quần xanh, áo yếm”, nếm trải đủ vất vả, khó khăn nơi Trường Sa mênh mông sóng nước – “Giọt máu thiêng của đất Việt dưới ngầu ngầu bọt sóng” (Thơ Trần Đăng Khoa) đã cho anh những trải nghiệm điềm tĩnh, chín chắn và có chiều sâu, giúp anh lượm lặt những ngôn từ trên chính mảnh đất nghèo khó của quê hương, ấp ủ nơi trái tim mình rồi gieo vào từng trang viết để có những áng văn thấm đượm hồn người, hồn quê. Với Nguyễn Hoàng Nguyên, văn thơ trước hết là cuộc đời. Vì vậy, nếu không bám rễ vào cuộc đời, nếu không hút nguồn nhựa sống dạt dào, ngầm chảy trong cuộc sống thì văn thơ sẽ mãi mãi là một cây non èo uột, không mang trên mình những cành săn chắc, những phiến lá xanh tươi.
Khác với “Hương chè kê” và “Chiều Vị Xuyên”, tản văn “Khói lam chiều” như một tiếng thở dài từ bếp rạ quê hương. “Khói lam chiều” không chỉ là một bài viết hoài cổ, mà còn là một tiếng lòng rất thời đại. Tác giả không đơn thuần “nhớ khói”, thứ khói lam chiều gắn liền với bếp rạ, mái tranh, củ khoai, hạt gạo thuở dưa cà mà còn day dứt trước sự biến tướng của khói rơm trong thời hiện đại: thứ khói không còn thơ mà trở thành hiểm họa môi trường, nỗi ám ảnh giao thông, và biểu tượng cho sự lúng túng trong quản lý nông thôn. Điểm đặc sắc ở tản văn này là sự pha trộn giữa cảm xúc và lý trí: Nguyễn Hoàng Nguyên vừa da diết tiếc nuối cái đẹp của quá khứ, vừa lý giải logic đời sống rằng “không thể vặn ngược thời gian”, và kêu gọi một giải pháp nhân văn và bền vững cho bài toán “sản phẩm phụ sau mùa gặt”.
Nếu “Khói lam chiều” là một nỗi buồn “phơi ra giữa chiều”, thì “Kiếp cỏ” lại là một nỗi buồn ẩn sâu trong lớp suy tưởng triết lý. Tác giả đi từ ký ức trò chơi tuổi thơ với cỏ gà đến những suy ngẫm sâu sắc về kiếp cỏ – biểu tượng cho thân phận con người nhỏ bé, khiêm nhường nhưng bền bỉ và bao dung. Cỏ trong bài viết không chỉ là một loài thực vật ven đường, mà còn là một biểu tượng văn hóa, một hình ảnh nghệ thuật gợi nhiều liên tưởng: từ chốn thảo lư của ẩn sĩ đến lời tự xưng “thảo dân” của quan lại khi về hưu. Dưới lớp từ ngữ dung dị, là một nội hàm đầy tính nhân văn và thi vị – một cái nhìn đầy yêu thương dành cho những điều thấp bé trong đời sống.
Trong tập “Hương chè kê”, chúng ta còn gặp những miền đất mà Nguyễn Hoàng Nguyên đã có dịp ghé qua trong cuộc đời. Dù không phải là nơi chôn rau cắt rốn, dù thời gian lưu lại có thể là ngắn ngủi nhưng cũng kịp để lại trong anh những tình cảm, những nỗi nhớ khó phai mờ khi anh đã có tình yêu và sự tìm tòi không mệt mỏi về vùng đất ấy. Các tản văn “Tản mạn Đà Lạt”, “Bao giờ trở lại Tam Đảo”, “Sông Hàn ngày trở lại”… là những ví dụ minh chứng.
“Hương chè kê” của Nguyễn Hoàng Nguyên mang màu sắc của tự chuyện đậm đặc. Nó như bản hòa ca giữa nỗi nhớ tuổi học trò và hình ảnh người thân, hình ảnh quê hương, xứ sở. Tất cả được kể lại bằng giọng văn chân thực, mộc mạc nhưng vô cùng lay động. Không chỉ đơn thuần là hoài niệm, “Hương chè kê” còn như một khúc tri ân, một nén tâm hương gửi đến người đã khuất, những mảnh đất mà tác giả đã từng ghé qua. Những câu chuyện dù là về cá nhân hay vấn đề xã hội đương đại, dưới ngòi bút của Nguyễn Hoàng Nguyên đều như vang vọng thành nỗi niềm của biết bao người từng lớn lên từ gian khó, từng đi qua những tháng ngày vất vả, khổ đau.
Không ra sức tô vẽ, chỉ bằng những ngôn từ dung dị, đời thường và bằng tấm lòng chân thật, Nguyễn Hoàng Nguyên đã trân trọng, nâng niu và đưa vào trang viết từng cuộc đời, từng thời đoạn lịch sử của quê hương, nơi anh sinh ra và lăn lóc lớn lên với bao tình cảm, sự mến mộ và lòng tôn kính. Những trang viết về những con người, sự việc diễn ra nơi quê hương của Nguyễn Hoàng Nguyên luôn giàu các chi tiết đắt giá, ám ảnh, có sức lôi cuốn sự tò mò của người đọc. Từ những hình ảnh bình dị,đời thường như hoa nhài trắng trong, hoa phượng đỏ thắm, hoa bằng lăng tím, hoa muồng màu hoàng yến, hoa quỳnh kiêu sa đến những “cây sòi đất”, “Quả chay chốn quê nghèo” hay “Dưa cải muối”… đều được Nguyễn Hoàng Nguyên nâng lên tầm nghệ thuật, mang theo bao trăn trở, nghĩ suy. Thiết nghĩ, đó là minh chứng cho sức mạnh của văn chương viết về những điều bình dị, về những cái đã qua. Nguyễn Hoàng Nguyên muốn gửi tới người đọc một thông điệp rằng, ký ức không chỉ để hoài niệm, mà để nhìn lại, để thấu hiểu, và để nhắc nhớ con người hiện đại sống tử tế hơn, biết ơn hơn với những gì đã nuôi lớn ta. Trong từng dòng chữ, người đọc bắt gặp chất thơ của đời sống, chất người của tác giả – một tâm hồn nhạy cảm, tha thiết với quê hương, gắn bó với cội nguồn và giàu ưu tư với hiện tại. Những tản văn trong “Hương chè kê”, dẫu không ồn ào, thời thượng, vẫn đủ sức làm lặng lòng người đọc giữa thời buổi mà cảm xúc thật ngày càng khan hiếm.
Tuy khác nhau về đề tài và bối cảnh, nhưng mỗi tản văn trong “Hương chè kê” của Nguyễn Hoàng Nguyên đều có cùng một mạch cảm xúc chung – đó là nỗi niềm hoài cổ, sự trăn trở về những giá trị xưa cũ đang dần mai một, và tâm thế chiêm nghiệm sâu sắc của một con người từng trải qua nhiều thăng trầm cuộc sống. Các tản văn đều mang đậm phong cách tự sự, lắng đọng, giàu chất thơ và suy tưởng. Tác giả không ồn ào, không bi lụy, mà chọn cách kể chậm rãi, để người đọc tự cảm nhận và suy ngẫm. Mỗi tản văn trong “Hương chè kê” là một lát cắt về cuộc sống chân thực, dung dị mà đầy chiều sâu, mang tính nhân bản sâu xa.
“Hương chè kê” không chỉ là một tập tản văn mà là một hành trình trở về ký ức.Trong nhịp sống hiện đại ngày càng gấp gáp, giữa muôn vàn sự đổi thay, đôi khi con người ta lại chợt thèm một chút dư vị xưa cũ. Từ một món ăn dân dã hay một khoảnh khắc ngồi lặng lẽ giữa lòng phố nhớ về những ký ức xưa cũng đủ để đưa người ta trở về với những nếp sống bình dị, ở đó có bàn tay của những con người cần mẫn bên bếp lửa, có sự thiếu thốn của thời bao cấp, nhưng ấm áp nghĩa tình, trĩu nặng yêu thương Nó gợi nhắc một cách nhẹ nhàng nhưng sâu sắc về những giá trị truyền thống đang dần phai nhạt.
Thước đo giá trị của “Hương chè kê” chính là sự bình dị của ngôn từ và sự chân thành của cảm xúc. Giữa muôn vàn phồn tạp của cuộc sống, Nguyễn Hoàng Nguyên vẫn biết giữ trách nhiệm sống, luôn trăn trở, thao thức và trân trọng những tinh hoa của văn hóa dân tộc. Nó cho thấy khát vọng rất nhân văn: giữ lại bản sắc, tình người và sự tử tế giữa một xã hội đang dần thay đổi, đồng thời đặt ra câu hỏi lớn: liệu chúng ta có đang đánh mất những hương vị tinh thần của đời sống? Đây cũng chính là thế mạnh của tản văn: không áp đặt, không giảng giải, mà để người đọc tự cảm, tự nghĩ, tự đối thoại với chính mình./.
Xin trân trọng giới thiệu tập tản văn “Hương chè kê” của Nguyễn Hoàng Nguyên cùng bạn đọc./.
PGS, TS Đỗ Ngọc Thứ
Chủ tịch Chi hội VHNT Trường Sơn TP Đà Nẵng