ĐI VỀ PHÍA BIỂN
Có những đêm mưa không ngủ, tôi nằm đếm những hạt mưa rơi. Những hạt mưa bé nhỏ rơi trên mái lá, cuộn mình lăn xuống sân rồi chảy về với dòng sông trước nhà. Có những đêm lên rừng, những hạt mưa lúc sầm sập, lúc tí tách nơi sườn đồi, vách đá rồi âm thầm theo khe suối nhỏ, hòa mình cuộn vào dòng sông, cuốn theo phù sa băng mình chảy mãi.
Những hạt mưa đều tìm về với biển.
Ai đã từng đọc kinh Cựu ước, hẳn sẽ biết kinh Cựu ước viết rằng biển được hình thành từ ngày thứ ba trong sáu ngày sáng thế. Tôi chẳng thể biết biển có từ khi nào, nhưng khi tôi lớn lên, biển đã ngờm ngợp sóng và những con còng gió đã miệt mài xe cát trên bãi biển quê nhà.
Hạt mưa đêm mang theo nỗi thao thức của tôi, của bà tôi, của những người không ngủ về cuộc đời, về những nỗi lo toan của đời sống thường nhật… mà đi về phía sông, phía biển. Những giọt mưa đêm mang theo nỗi nhớ của dì tôi về đồng đội trong những cơn sốt rét rừng, những trận bom tan nát cả một vùng đồi và rồi đồng đội người còn, người mất, họ vẫn tìm nhau trong những giấc mơ chập chờn, những đêm mưa gió trở trời. Trong đêm, bác tôi mắt vẫn chong chong đếm từng giọt mưa tí tách, xót thương đứa con nằm lại nơi rừng thiêng, núi thẳm, hòa bình rồi mà anh mãi chưa về. Thịt xương anh đã hòa vào lòng đất. Có lẽ nào mưa lũ cũng cuốn cả anh theo những dòng suối, những hạt đất trôi vào dòng sông mà đi về phía biển?
Từ thuở lập nước và giữ nước đã có truyền thuyết về Lạc Long Quân và Âu Cơ, năm mươi người con đã theo cha xuống biển để mở mang bờ cõi.
Đến những xóm làng trù phú vùng đất Kim Sơn Ninh Bình hay Tiền Hải Hưng Yên mới thấy công sức lấn biển của cha ông ta xưa. Từ những vùng đất ven biển hoang vu và lầy lội đã dần dần biến thành những làng xóm trù mật, ruộng đồng phì nhiêu, lúa dâu tươi tốt, phồn thịnh. Những con sông ngang dọc, những lối ngõ vuông vức như bàn cờ, những cánh đồng trải rộng, những triền đê sừng sững quai mình ra biển, hiên ngang trước bão tố, thủy triều và cả một mạng lưới sông đào thau chua, rửa mặn, đó chính là trí tuệ của Doanh điền sứ, nhà khẩn khoang kiệt xuất Nguyễn Công Trứ và thành quả lao động của những người nông dân đầu thế kỷ XIX với vô vàn mồ hôi, nước mắt nơi miền đất sa bồi đầy bão bùng, sóng gió.
Đến bây giờ, những người công nhân mặc áo lính vẫn ngày đêm đối mặt với sóng gió biển khơi, xây nên những công trình giữa biển để gìn giữ đất liền và chủ quyền biển đảo của đất nước. Từ những hòn đảo chìm ngoài Trường Sa như trong tiểu thuyết Đảo Chìm, nhà thơ Trần Đăng Khoa có viết: “ Nó mới đang là một vùng san hô ngầm còn chìm sâu dưới ba mét nước…”, “…, nó mới đang còn là một cái bào thai…” , “…Còn hiện tại, chưa có gì cả. Một bầu mây nước âm u, hoang dã. Vậy mà bao nhiêu kẻ đã nhòm ngó, rình rập…” đã được canh giữ và xây dựng thành hòn đảo vững chãi ngoài biển khơi…
Bao nhiêu mồ hôi, bao nhiêu nước mắt và cả máu của những người con đất Việt đã đổ vào biển. Từ thời Tây Sơn, chúa Nguyễn đến triều Nguyễn đã luân phiên dân đinh ở hai làng An Vĩnh và An Hải trên đảo Lý Sơn sung vào hải đội Hoàng Sa, sau này kiêm cả đội Bắc Hải để thực hiện nhiệm vụ cắm mốc, dựng bia chủ quyền, đo đạc thủy trình, vẽ bản đồ và khai thác sản vật trên hai đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trước khi cử binh phu đi làm nhiệm vụ, các họ tộc tiến hành làm lễ Khao lề thế lính Trường Sa. Nhiều binh phu đã ra đi và không bao giờ trở về. Đọc những câu thơ còn truyền lại thấy xa xót trong lòng:
“Hoàng Sa trời nước mênh mông
Người đi thì có mà không thấy về”
Vẫn còn đó những ngôi mộ chiêu hồn của các họ tộc, những ngôi mộ không có xác người binh phu, người thân đã nặn hình tượng người chết và làm phép gọi hồn nhập cốt rồi chôn cất. Thân xác họ mãi mãi nằm lại nơi biển đảo, hòa vào nước biển mặn mòi. Những người mẹ, người vợ, người con binh phu ở nơi đảo nhỏ mà hồn đã gửi hết về phía biển.
Mỗi lần nghĩ về biển đảo, ta chẳng thể quên hai chữ Gạc Ma. Cả dân tộc vẫn khắc ghi tình yêu biển đảo của 64 chiến sỹ Hải quân nhân dân Việt Nam. Các anh đã nắm chặt tay nhau tạo thành “Vòng tròn bất tử” để bảo vệ đảo Gạc Ma tháng 3/1988. 64 ước mơ hoài bão và tuổi thanh xuân được hiến dâng để bảo vệ cột mốc tiền tiêu. Đảo Gạc Ma vẫn còn đó trong mỗi trái tim người Việt. Mỗi con tàu đi qua đảo lại hú từng hồi còi dài hướng về các anh và thả những vòng hoa, những con hạc giấy để tri ân các anh. Gạc Ma và các anh luôn trong trái tim mỗi người Việt Nam.
(2).jpg)
Và từng ngày, từng giờ, trên các hòn đảo khác, từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc vẫn được những người lính canh giữ ngày đêm bảo vệ chủ quyền của đất nước. Các anh là niềm tin, là nỗi nhớ thương, là tình yêu của đất liền ngày đêm gửi về phía biển.
Biển luôn hát những bài ca với ca từ riêng của biển, chỉ những người nào yêu biển mới hiểu được ngôn ngữ của biển mà thôi. Là khi nào biển đang hát hay đang khóc, đang cười. Biển rì rầm mỗi đêm về như tình tự. Biển êm đềm những khúc hát ban mai. Có đôi khi, lời hát gầm gào như cất lên từ phía thượng nguồn xa thẳm, khúc hát của rừng già, của núi đá trầm thiêng. Có những lúc biển nghẹn ngào khúc ru nỗi đau từ đất liền của mẹ, của những người đàn bà mong mỏi nhớ thương con, thương chồng từ thuở binh đao lửa đạn, những người ra biển mưu sinh rồi mãi không về… Biển nô đùa như trẻ thơ với những trò chơi của con trẻ. Biển kể những câu chuyện tình say đắm, những hạnh phúc, khổ đau, những hải trình ra đi và trở về. Biển ôm trọn tất cả từ khát khao, hi vọng, đau thương, nhớ nhung và giận hờn của mỗi người. Biển mênh mông, bao la là thế, vậy mà có những lúc biển cũng biết giận dữ và cuồng nộ kinh hoàng. Biển cuốn phăng tất cả mọi thứ về phía mênh mông.
Một sáng mùa hè, chúng tôi hẹn nhau ra biển sớm để đón mặt trời mọc và tắm biển. Mặt đất âm ẩm hơi sương, những cây phi lao được trồng và cắt tỉa ven đường trông giống hình những người đang đi về phía biển. Hơi gió biển thổi vào lành lạnh. Sóng vỗ ì oạp từ xa. Chân trần tôi hoà vào cát mịn màng, mát rượi. Biển trong lành, tinh khôi, hiền hoà dang từng lớp sóng đón chúng tôi vào lòng. Theo vết chân mờ mờ in trên cát, tôi biết rằng có người đã ra biển trước chúng tôi. Trong ánh sáng nhập nhòa của ngày mới người đàn ông đang vác đồ nghề xuống biển đi te. Hai cái sào được mắc lưới như hai cánh chim sải vào mặt nước. Thật tiếc, nếu tôi không dậy sớm thì làm sao có thể chiêm ngưỡng vẻ đẹp này của biển. Khi chúng tôi còn say giấc nồng thì những người dân đã cặm cụi chuẩn bị đồ lề ra biển để mưu sinh. Niềm thương dâng đầy trong tôi về sự vất vả, khó nhọc của họ, nhưng không! Nụ cười hiền hậu của họ đã nói với tôi rằng: họ là người của biển, công việc là niềm vui của họ. Phải rồi, ai đó từng nói: khổ đau hay hạnh phúc phụ thuộc vào nụ cười của bạn. Tôi gọi họ là những người đi về phía bình minh.
Và rồi, từ phía đường chân trời, nơi mòng mọng nước biển dâng lên một quầng sáng. Mặt trời dần dần nhô lên thật diễm lệ. Muôn ngàn tia nắng hắt ra từ quả cầu nhỏ xuống mặt biển huy hoàng. Chúng tôi tranh thủ chụp ảnh với mặt trời. Hai tay nâng niu quả cầu lửa phía xa xăm, hy vọng một điều gì đó tốt đẹp phía xa vời, một nguồn năng lượng siêu nhiên đến với trái đất và con người và dĩ nhiên là chúng tôi có nhiều ảnh đẹp với biển.
Biển chan hòa với trăm nghìn con sóng đang tràn lên bờ cát nhắc tôi về kỷ niệm ngày hè, nơi tôi và các anh chị thường tập bơi trên biển như những con rái cá. Thú vui của trẻ nhỏ lúc rảnh rỗi là đắp lâu đài và chạy theo những con còng gió. Sóng lăn tăn dưới chân và nắng cháy trên đầu. Biển đã cất hộ chúng tôi những vết chân trên cát khi đùa nghịch, chạy nhảy thả diều và cả tiếng rừng vi vút như một điệu đàn bất tuyệt giờ chỉ còn trong ký ức. Bếp lửa bập bùng thơm mùi lá phi lao mà chị em tôi đi quét về đun cũng rất xa rồi…
Chiều ấy, tôi đi về phía biển. Trước khi nắng kịp giấu sau vòm nước phía chân trời là một hoàng hôn tuyệt diệu. Biển cuồn cuộn, mênh mông, dâng trào biếc xanh và hát khúc đắm say của sóng. Biển và màu trời như hòa vào nhau ở phía đường chân trời. Nơi đó luôn là khát khao, là ước mơ của con người, nơi niềm vui, nỗi buồn vỡ òa mỗi ban mai.
Tôi trở về nhà khi mặt trời đã lặn dưới làn nước tối thẫm, đèn đã sáng nhấp nháy như sao ngoài khơi xa. Xộc vào mũi tôi là mùi vị của biển. Đó là mùi vị thân thương của mắm tôm, mắm cá Ninh Cơ, vị mặn chát của muối trong hơi thở của biển, mùi cá, tôm tanh tanh… và cả những cơn gió mát lành. Có phải đó là “mùi cơ thể” của nữ thần biển cả Calypso? Tất cả những mùi vị ấy mỗi lần đi xa tôi lại mang theo và không khi nào quên vì nó mang lại cảm giác bình yên, tiếp cho tôi nguồn năng lượng vô tận, mênh mông, chẳng bao giờ vơi cạn của quê nhà.
Tôi đã đọc ở đâu đó: nếu nhớ ai hãy đi về phía biển, nỗi nhớ đấy không chỉ giữ riêng cho mình mà biết đâu rằng, ở đâu đó, có một người cũng đi về phía biển./.
Hà Kim Quy