Hành quân tới tuyến 3 binh trạm 36,Sư 471 anh hùng,Dụ thi Hào khí Trường Sơn của Trung tá Nguyễn Thị Kim Quy
Dự thi Hào khí Trường Sơn
Hành quân tới tuyến 3 binh trạm 36, Sư 471 anh hùng.
Chào chia tay các bạn đồng nghiệp y sĩ ở lại Khe Hó cửa ngõ vào Nam. Cửa khẩu ác liệt và Đoàn bộ 559 đóng quân tại ngã 3 đường 9. Tháng 5 năm 1968, nơi mà Chính ủy Vũ Xuân Chiêm và tư lệnh trưởng Đồng Sĩ Nguyên chỉ huy chiến dịch này.Hơn 20 y sĩ chúng tôi còn lại được phân công vào tiếp cuối tuyến đường của Bộ tư lệnh, giờ nghĩ lại không biết sao mà đoàn quân y sĩ ào ào tiến bước không sợ gian khổ. Những ngày đầu xa đất Bắc, vượt mọi cung đường, thời tiết, tới được Binh trạm 35, 36 vừa được tách ra ở tuyến 3 vùng ATTOPEU hạ Lào.Nhớ ngày ở Cự Nẫm, Quảng Bình, các mạ (Mẹ) cho lớp y sĩ khóa 16 Phú Thọ nằm dưới hầm tránh đạn, lại cho các con mượn cân tạ và quang để treo nhau lên cân trước khi vào tuyến lửa sang Lào.
Chui qua động Phong Nha, Kẻ Bàng, chúng tôi đặt chân lên trạm giao liên số 1, trung Lào. Trượt chân, sai khớp, có nước mát của động, ngâm chữa bệnh quá tốt, thế là lại hành quân.Đến dốc 3 thang, 5 thang thì tiếng kêu cấp cứu vang lên: “Các đồng chí ơi, cấp cứu Voi Rừng!”. Cả đoàn buồn cười quá vì lẽ ra với tôi, cân móc hàm ở Quảng Bình 60kg thì phải khỏe lắm chứ, sao lại vang lên “cấp cứu Quy Voi”. Hóa ra vì béo, không leo dốc được, khó thở nằm vật ra vệ cỏ, được mẻ cười vỡ bụng, nghỉ lại hành quân. Giờ đây, y sĩ Quản Thị Tuất hiện ở thành phố Việt Trì, Phú Thọ nhớ lại: “Cậu béo thế mà. Ngày đó tớ gầy còn mang ba lô cho cậu đó”. Nhìn bạn mà tôi ôm hôn thắm thiết.Thế rồi có lúc mình tự hại mình. Hôm đó đi dép cao su đúc (chân trái dẫm đè lên một thanh nứa nhọn, chọc vào ngón cái mé ngoài chân phải, rách đúng góc móng, máu lênh láng).Không sao, nếu không bị nhiễm trùng, vì ở Trường Sơn như thế là bình thường. Nhưng lội nước bẩn, tối về chân sưng vù (ở lại trạm giao liên làm lính thu dung chăng?). Không được! Tôi luộc xi lanh và ngồi định thần chuẩn bị tự tiêm Penicillin 1 triệu UI. Đồng đội hãy tưởng tượng đầu ngón chân chỉ có da và xương – nếu là bị thương cưa đi đã đành đau một thể - nay ngồi chọc kim tiêm và bơm thuốc tại đầu ngón chân. Ai đã tiêm Penicillin thì thương cảm với quân y sĩ Kim Quy này nhé!Xé thịt! Nghỉ một lúc lại tiêm, thế là không phải nghỉ lại trạm giao liên đi sau. Đã thế còn phải chống sốt rét nữa chứ? Ở nhà với Mẹ thì được ăn kẹo ngọt, vào tới cửa rừng là một lọ thuốc Quy Nin trong ba lô với một ngày nhất định trong tuần phải uống chống chu kỳ sốt rét “nhắm mắt nhắm mũi nuốt cay đắng vào cổ họng”. Bởi thế ở Trường Sơn suốt 3 năm mà tôi không hề bị sốt rét. Đến năm thứ 4 thì bị rồi. Cũng áp xe mông để làm kỷ niệm chứ.
Vượt qua các cung đường ác liệt của Binh trạm 33, 34, 35, bằng đường giao liên hoặc ô tô, nào rừng thông, nào dốc Khỉ, nào đèo Long mà chỉ có cánh lái xe năm 1968 mới biết được. Sông suối nước Lào hiểm trở.Thế là gần 3 tháng, chúng tôi đã tới bệnh xá Binh trạm 36 ngày đó cách nam sông Bạc gần 1 tiếng, có ngầm Bạc kiên cường. Nơi đó, Chính ủy Binh trạm 36 Lê Phụng Kỳ , quê ở xã Hòa Đồng, Tuy Hòa, nay là Tây Hòa, tỉnh Phú Yên (ĐT con trai Tân: 0932.505.224) - và cần vụ Lê Văn Công ở Hải Hậu Nam Định đã hy sinh anh dũng trên trọng điểm ác liệt này tháng 5 năm 1969.Binh trạm phó 36 Đặng Hồng Tâm, quê ở Nguyên Hòa, Phù Cừ, Hưng Yên (Ông là cha của nhà thơ, Đại tá, Hồng Thanh Quang,hiện là Tổng Biên tập Báo Đại Đoàn Kết) cùng lái xe Nguyễn Văn Tùy ( 0983.066.498) bị thương trong trận đánh này, nén đau thương bên đồng đội hy sinh, ghìm những giọt nước mắt đau thương vào trong tim để rồi chiến đấu trả thù cho đồng đội đã yên nghỉ. Sau hòa bình, ông có bài thơ “nhớ Trường Sơn”:
“Bom nổ rền bên cạnh thùng xe
Năm người hai chết còn ba
Vùi nông một nấm xót xa nghĩa tình”
(trích) Năm 1975
Nữ quân y chúng tôi như con thoi phục vụ nhiều chiến dịch của Binh trạm. Cả hai mùa mưa và khô thương bệnh binh đều nhiều cả ra và đưa quân vào nhưng chúng tôi đâu có quản. Thức suốt đêm thâu liên tục nhiều đêm liền không bao giờ lùi bước. Là quân y sĩ lấy tĩnh mạch giỏi nhất Bệnh xá: Cứ ca cấp cứu nào là tiếng gọi “ Quy béo ơi!”. Vì sốt rét ở thể lạnh, hay hôn mê đều bị xẹp tĩnh mạch, nhưng có tôi, kể cả mạch khoeo chân tôi cũng lấy chuẩn, không làm đau bệnh nhân phải bộc lộ tĩnh mạch.
Quân y sĩ Lê Thị Ngọc Ấm (ĐT: 0962.303.987), quân y sĩ Nguyễn Thanh Huỳnh – hiện ở Sài Đồng, Gia Lâm, Hà Nội. Là quân y sĩ có dáng người nhỏ bé, mỗi khi các chị thay băng điều trị cho một phi công Mỹ bị bắn rơi ở sân bay Chà Vằn hạ Lào tháng 4 năm 1969 thì các chị phải đứng lên ghế, mặc dù người lính thiếu tá Mỹ này ngồi trên giường. Cánh tay và má bị bỏng, vết thương nhiễm trùng vì đưa đến bệnh xá phải hết 2 ngày. Các y bác sĩ tập trung cứu chữa, vết thương chóng lành được chuyển ra Bắc theo đường giao liên, bàn giao cho Binh trạm 35 Bắc Ngầm Bạc. Từ đó chúng tôi không nắm được tình hình người lính Mỹ này (hiện nay MIA – vẫn tìm kiếm người lính phi công Mỹ đó). Nhưng phải nói câu chuyện ngày xưa thôi, vì khác chiến tuyến, bộ đội Việt Nam vẫn cưu mang cứu chữa cho phía bên kia khỏi, khỏe nhanh. Thế mà bọn lính chiêu hồi ngửi thấy có lính phi công điều trị ở bệnh xá 36, bọn chúng đã dùng máy bay trực thăng bay quanh bệnh xá hàng tiếng đồng hồ, rà soát cành cây vạch lá kêu gọi người lính phi công đó hòng phát hiện ra bệnh xá để chúng cứu. Y bác sĩ chúng tôi được lệnh của chính trị viên Vũ Đình Miện và bệnh xá trưởng Vũ Đình Khôi – 198 đường Trường Chinh, thành phố Nam Định - sơ tán bệnh nhân.
Bộ đội ta trên trọng điểm pháo bảo vệ ngầm Bạc, bệnh xá cùng binh trạm bộ 36 đã cải trang, cần cờ ra khu đất rộng vẫy cờ hòng lừa bọn Mỹ đáp máy bay xuống thì sẽ bị ta bắt gọn.Y sĩ Huỳnh lúc đó đứng dưới gốc cây cạnh bãi, cầm túi cứu thương để nếu xảy ra chiến sự thì cấp cứu ngay.
Tức quá bọn chúng bắn vài đợt rốc két rồi chuồn thẳng. Rất may chỉ vào cổng của bệnh xá, không vào khu vực bệnh nhân điều trị…Thật đúng câu của ông cha ta:
“Thương người thì khó nên thân”
“Cứu vật, vật trả ơn
Cứu nhân, nhân trả oán”
Mà bộ đội ta đã dày công cứu chữa người phi công này.“Rất tiếc, ngày ấy ở tuyến 3, nhà báo và nhà văn hiếm lắm, không lưu được hình ảnh này”. Tôi thường nghĩ.Vất vả thế, nhưng phải có lúc buồn cười chứ, bệnh nhân sốt rét được cáng đến bệnh xá, quân y chúng tôi hỏi “từ đâu đến?”. Các anh nói “dốc bà Quy”. Đội trưởng 15W C1 D44 thông tin Đặng Văn Được (ĐT: 0972.217.235) hiện ở thị xã Yên Bái, đến giờ gặp họp Sư 471, anh vẫn cười ngăt nghẽo, đùa với tôi với cái bắt tay không rời. Anh vào Trường Sơn năm 1970, từng là Báo vụ của Bộ tư lệnh 559, anh được chuyển về Binh trạm 38 tháng 11/1970, anh phụ trách đường dây thông tin trên đoạn đường hiểm trở đèo núi cao đi lại khó khăn, rập rạp vùng Nam sông Bạc. Ta căng dây địch lại phá hoại, bom thả đứt đường dây. Được phụ trách chiều dài của binh trạm, nào cọc, nào dây, nào máy mà còn hô nhau: “Các đồng chí ơi, đến đâu nghỉ? Đến dốc bà Quy.” Địa danh quen thuộc của các anh lính thông tin, thế là dốc đã có tên để nhớ trong lúc vui đùa mà kỉ niệm đó không quên của các anh với các quân y sĩ đóng ở bệnh xá cách các anh một tiếng đi bộ gần dốc Bô Phiên – dốc 12 cua – thì quen quá với các anh ở tiểu đoàn xe D60 đóng tại cây số 120 đường 128A của Binh trạm. Ngày đó, đại tá Nguyễn Ngọc Quỳnh –Hiện ở Thịnh Quang, Đống Đa, Hà Nội- anh là D trưởng. Gặp anh với cái bắt tay thân thiết, anh nói: “Ngày đó, Kim Quy đã cấp cứu vết thương cho anh. Anh nhớ lắm những cô gái quân y xinh đẹp, nhiệt tình”. Những đoàn xe mang lại nhiều chiến thắng của Binh trạm, chuyển hàng vào chiến trường đóng góp cho các chiến dịch. Chuyến ra, các anh đã đưa đoàn học sinh miền Nam đến nghỉ tại bệnh xá 36 mùa khô 1968. Các em dễ thương, hay hát, chúng tôi quý mến các em lắm, tặng các em cái gì có của lính Trường Sơn. Các em ở với chúng tôi một tuần, lưu luyến ôm, chia tay, chúc các em ra miền Bắc học giỏi để thành đạt, hòa bình về xây dựng quê hương. Tôi có viết thư nhờ em gái tên là Mai mang ra Bắc về cho mẹ. Và hẹn ngày chiến thắng gặp lại.
50 năm rồi, viết ký ức để nhớ, để làm kỷ niệm một quãng đường đời trên dải Trường Sơn. Mong em Mai còn trên đất Bắc gặp lại chị nhé tại: Số nhà 19 Tạ Hiện, phường Hàng Buồm, Hoàn Kiếm, Hà Nội.Cuộc sống càng ngày càng quen thuộc với gian khổ, nhưng được đồng bào Lào cưu mang, mùa mưa 6 tháng không gạo, thế mà những gùi gạo nếp, tình yêu thương của bản Hạt Vi, xã Đắc Xa Mo, huyện San Xây, tỉnh Tà Văn Oọc, ùn ùn được đem đến chia sẻ với thương bệnh binh. Lúc đó chỉ ăn một lạng một ngày. Cảm động với tấm lòng người dân, chúng tôi không nề hà giúp đỡ đồng bào, từ xây dựng bản làng đẹp đến cứu chữa, chăm sóc cho người dân. Những ca khó khăn như bài ký của tôi (Bé Ngọc Việt trong Trường Sơn thuở ấy bây giờ).Từ tình thương yêu, đùm bọc lẫn nhau mà binh trạm đã mở lớp y tá cho bộ đội học cùng 20 anh chị em người Lào vui quây quần bên nhau ca múa học tập say sưa.Chúng tôi kể chuyện bên bếp lửa với củ sắn lùi, kề vai sát cánh học tập tiến bộ góp công bảo vệ sức khỏe để cùng đánh đuổi kẻ thù chung.Lớp trưởng người Lào, Chị tên là Suli, Chị còn một cái tên là Malihom (tạm dịch là “bông hoa nở buổi chiều”). Chị là con gái ông tỉnh trưởng ATTOPEU ngày đó. Giờ Chị còn làm ngành y không hay đã chuyển nghề rồi?. Kính mong ngày gặp mặt để ôn lại những ngày xưa chúng tôi ở trên quê hương Chị.Gian khổ cũng mang lại cho các nữa quân y ở binh trạm nhiều ước vọng và trào lưu trên mọi lĩnh vực phục vụ chiến đấu được thương bệnh binh yêu quý. Hoàn thành nhiệm vụ, chúng tôi đều được đứng trong hàng ngũ của Đảng, tháng 2 năm 1971.Đánh dấu bước ngoặt cuộc đời lính trên dải Trường Sơn hùng vĩ.
Dù bị thương, nhưng tôi vẫn cùng các y bác sĩ bệnh xá phấn đấu cứu chữa, đưa nhiều đoàn quân tiến vào Nam góp phần nhỏ vào Sư 471 anh hùng, một trong 2 Sư xe của quân đội ta ngày đó có mặt trước cổng Dinh độc lập dành chiến thắng lúc 11:30 ngày 30/04/1975 - Đại thắng mùa Xuân thống nhất đất nước.
Trung Tá Nguyễn Thị Kim Quy
(Ủy viên thường vụ Sư 471,Quân y Binh trạm 36)