--------------------------------------------------------------
BÀN VỀ TIẾNG ĐÀN THÚY KIỀU
Hồ Văn Chi.
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du nhiều lần nhắc đến việc Kiều đánh đàn, nhưng đặc tả tiếng đàn ấy thì trước sau có bốn lần. Bốn lần Kiều đàn ở bốn hoàn cảnh, tâm trạng khác nhau, nhưng đều hay như nhau – yêu đương và đau khổ.
1. Lần thứ nhất là Kiều đàn cho Kim Trọng nghe sau lần gặp gỡ với mười tám câu thơ.
So dần dây vũ dây văn
Bốn dây to nhỏ theo vần cung thương
Khúc đâu Hán Sở chiến trường
Nghe ra tiếng sắc tiếng vàng chen nhau
Khúc đâu Tư Mã Phượng Cầu
Nghe ra như oán như sầu phải chăng!
Kê Khang này khúc Quảng Lăng
Một rằng Lưu Thủy hai rằng Hành Vân
Quá quan này khúc Chiêu Quân
Nửa phần luyến chúa nửa phần tư gia
Trong như tiếng hạc bay qua
Đục như nước suối mới sa nửa vời
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa
Ngọn đèn khi tỏ khi mờ
Khiến người ngồi đó cũng ngơ ngẩn sầu
Khi tựa gối khi cúi đầu
Khi vò chín khúc khi chau đôi mày.
2. Lần thứ hai là Kiều đàn cho Hoạn Thư nghe khi nàng bị bắt và hành hạ ở nhà họ Hoạn với sáu câu thơ.
Bốn dây như khóc như than
Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng
Cùng trong một tiếng tơ đồng
Người ngoài cười nụ người trong khóc thầm
Giọt châu lã chã khôn cầm
Cúi đầu chàng những gạt thầm giọt Tương
3. Lần thứ ba là Kiều bị ép hầu đàn cho Hồ Tôn Hiến sau khi Từ Hải lâm chung với bốn câu thơ.
Một cung gió thảm mưa sầu
Bốn dây rỏ máu năm đầu ngón tay
Ve ngâm vượn hót nào tày
Lọt tay Hồ cũng nhăn mày rơi châu
4. Lần cuối là Kiều lại đàn cho Kim Trọng nghe sau mười lăm năm tái hợp với mười câu thơ:
Phím đàn dìu dặt tay tiên
Khói trầm cao thấp tiếng huyền gần xa
Khúc đâu đầm ấm dương hòa
Ấy là hồ điệp hay là Trang Sinh
Khúc đâu êm ái xuân tình
Ấy hồn Thục Đế hay mình đỗ quyên
Trong sao châu dỏ duềnh quyên
Ấm sao hạt ngọc Lam Điền mới đông
Lọt tai nghe suốt năm cung
Tiếng nào là chẳng não nùng xôn xao
Khúc đàn cuối này nó không còn cái dồn dập, rạo rực như khúc đàn của thuở ban đầu, mà thay vào đó là khúc đàn của con người trải nghiệm. Kinh qua nỗi đau lưu lạc, lăn lóc bầm dập trên thớt đời, con người như lột xác và hóa kiếp để nhập vào một thế giới khác.
***
Ngoài ra, còn những lần khác, tuy Kiều có đánh đàn nhưng không có nhiều ấn tượng như
* Khi bán mình chuộc cha:
Câu 639&640
“Đắn đo cân sắc cân tài
Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ”
* Khi ở thanh lâu Tú Bà;
Câu 1245 &1246
“Đôi phen nét vẽ câu thơ
Cung cầm trong nguyệt, nước cờ dưới hoa”
* Khi gặp Thúc Sinh:
Câu 1294&1295:
“Khi hương sớm, khi trà trưa
Bàn vây điểm nước, đường tơ họa đàn”.
* Khi về làm hầu gái Hoạn Thư
Câu 1777-1780
“Phải đêm êm ả chiều trời
Trúc tơ hỏi đến nghề chơi mọi ngày
Lĩnh lời nàng mới lựa dây
Nỉ non thánh thót dễ say lòng người”.
***
Để đặc tả tâm trạng qua tiếng đàn của Thuý Kiều trong bốn lần đã nêu lên, trong tác phẩm “ĐỌC KIỀU”, Hồ Văn Chi- nxb Hội nhà văn, 2019, đã có 5 bài thơ TNBC sau đây:
KIỀU ĐÀN LẦN THỨ NHẤT (trang 29)
So dần dây vũ với dây văn
Trầm bổng cung thương thánh thót vần
Hán Sở tranh hùng, tàn cốt nhục
Chiêu Quân luyến chúa, xót tình nhân
Trong như hạc gọi...bầy xa vợi
Đục tợ mưa sa... suối đỏ dần
Tựa gối, cúi đầu, vò chín khúc...
Đoạn trường điềm báo...não nùng thân!
KIỀU ĐÀN LẦN THỨ HAI
Bốn dây như oán lại như than
Giọt đắng dòng cay quyện tiếng đàn
Lã chã hàng châu rầu tấc dạ
Bần thần vẻ mặt thắt buồng gan
Người cười nụ bởi...hay màn kịch
Kẻ khóc thầm do...xót nỗi nàng
Một tiếng tơ đồng phân hỷ nộ
Bi, hài...có lẽ nhất trần gian!
KIỀU ĐÀN LẦN THỨ BA
Hồ Công thị yến thưởng quân quan
Lệnh bắt nàng dâng mấy bản đàn
Vượn hót ve ngâm...dây máu rỏ
Mưa sầu gió thảm...mặt châu chan
Lòng tang quặn thắt bao chua xót
Mặt sắt đần ngây bấy bẽ bàng
Người nát buồng tim ôm mối hận
Kẻ cười khoái trá thỏa mưu gian!
KIỀU ĐÀN LẦN THỨ TƯ
Nhớ ngón đàn xưa lại ngỏ lời
Nể tình, nàng gảy mấy chương chơi
Trang Sinh - Hồ Điệp...mơ hình bướm
Thục Đế - Đỗ Quyên...lánh sự đời
Trước thảm sầu vì.. lo mệnh bạc
Nay vui vầy bởi... được tâm thơi
Đoạn trường bản ấy từ nay dứt
Hỷ nộ tuỳ duyên, mệnh tại trời!
TIẾNG ĐÀN THUÝ KIỀU (trang 52)
(Thủ vĩ ngâm)
Bốn bận rưng rưng tỏ nỗi mình
Từ thiên “Hán Sở”... tới “Trang Sinh”...!
Giao duyên thảm thiết, rầu tâm khảm
Đối diện chua cay, dại dáng hình
Mặt sắt còn thương người bạc mệnh
Lòng vàng thêm phục tấm trung trinh
Vui buồn cũng bởi người nghe cả
Bốn bận rưng rưng tỏ nỗi mình!
Hồ Văn Chi - Đà Nẵng
Hội viên Hội VHNT Trường Sơn Việt Nam