"Tìm cha" - TG: Trương Ngọc Hùng

Ngày đăng: 03:53 04/02/2023 Lượt xem: 160
 

TÌM CHA
 
          Phát thanh viên đài truyền hình Việt Nam vừa kết thúc bản tin ngắn về chiến dịch quân sự đặc biệt của Nga đối với Ucraina thì màn hình điện thoại lóe sáng cùng dòng chữ: “Họp đột xuất, địa điểm, thời gian như cũ”. Ối giời, họp với chả hành, ai còn cần đến loại đầu 7 đít chơi vơi này nữa mà thường kỳ với đột xuất, chẳng qua là thói quen không sửa được của dân suốt đời công chức dù đã rời nghiệp cả chục năm trời vẫn không bỏ được cái tội bù khú ăn uống, cà phê, cà pháo vẫn gọi là “họp”.
          Nhác thấy nhóm, chủ quán lẳng lặng xếp chiếc bàn tròn kê dưới rặng cây sát bên hồ. Ở đấy, như khoảng trời riêng cách biệt với  xung quanh, có thể vô tư bàn tán và ngồi bao lâu tùy thích. Chưa kịp ngồi xuống ghế, Xuân “nổ” đã oang oang:
          - Nga “oánh” Ucren rồi. Chiến dịch chiến dẽo cái phải gió.
          - Ấy! Hạ hỏa, hạ hỏa. Giả dụ thế này: Một kẻ được coi là mạnh nhất nhì thiên hạ bị thằng hàng xóm dặt dẹo dựa vào đám lưu manh lúc nào cũng nhăm nhăm gí dao vào sườn. Nói nhẹ không nghe, đe nẹt không sợ, liệu có chịu nổi không? Không chứ gì, vậy phải dằn mặt thôi.- Một sỹ quan quân đội nghỉ hưu đã từng theo học ở Liên Xô vặn lại.
          - Cũng đúng nhưng ở đâu có kiểu hơi tý là động chân động tay, rồi sẽ phải đương đầu với cả thế giới phương Tây thôi.
          - Chả làm gì được hết. Thằng Mỹ và cả khối Nato đánh tan nát Apgaxtan, I Rắc, Li Bi, Nam Tư, có ai làm gì được nó đâu. Lẽ phải thuộc về kẻ mạnh.
Tôi không tham gia vào cuộc tranh luận khó có hồi kết ấy vì bận mải nhớ về Thành phố Kiep nằm bên bờ sông Đơ nhép đẹp mê hồn... Hồi ấy, khi đang làm trắc thủ góc tà của đoàn tên lửa Quang Trung thì được lệnh tập trung học ngoại ngữ, chuẩn bị đi học Liên Xô. Khóa học tập trung thông thường phải một năm, nhưng tình hình chiến sự rất căng nên rút xuống 6 tháng. Sáu tháng xoay trần ra học, dù có cố đến mấy cũng chỉ dừng ở chỗ nghe bập bõm, nói ngọng nghịu. Tuy nhiên chưa ai thấy hết những khó khăn do rào cản ngôn ngữ mà hừng hực khí thế, luôn tâm niệm: “Chả có gì không làm được, không có gì cản được những người lính”. Sang đến nơi bắt tay vào học mới thấm, vốn ngoại ngữ nghèo nàn chưa đủ giao tiếp thông thường giờ phải tiếp thu lượng kiến thức đồ sộ về chuyên ngành thật khó như “tìm đường lên trời”. Nhiều chuyện dở khóc dở cười, thầy nói một đàng, trò hiểu một nẻo sảy ra như cơm bữa. Thầy thông cảm, nhưng yêu cầu về nhiệm vụ không thể châm chước nên tối tối bò ra tra từ điển kết hợp với phần tiếp thu trên lớp cộng với tài liệu cũng chỉ hiểu lõm bõm.
          - Ngôn ngữ không phải vấn đề có thể giải quyết một sớm một chiều, không phải cứ chăm chỉ là được mà phải nghe nhiều, nói nhiều, tiếp xúc nhiều. Hãy tìm lấy một người đàn bà, hãy yêu đi, cuộc sống sẽ thú vị hơn, sẽ gắn bó với mảnh đất con người nơi này hơn và sẽ học được nhiều hơn, điều mà không trường lớp nào dạy được.- Thầy giáo nói.
Bọn tôi ngỡ ngàng vì trái với quán triệt của đoàn: “Đất nước đang có chiến tranh, mọi người hãy tập trung vào học, tuyệt đối cấm quan hệ trai gái đặc biệt với người nước ngoài”. Lời khuyên của thầy là cái cớ để chúng tôi “lách” bằng chiêu trò: “Đi học thực tế” nghĩa là ai cũng có một người con gái của riêng mình, đó là khóa học thực tế thú vị nhất, một trải nghiệm tuyệt vời nhất. Cô gái của tôi là sinh viên Đại học Quốc gia Kiép, xinh đẹp và lãng mạn. Những lúc cùng nhau đi dạo trên bờ sông hoặc vào khu rừng ngoại ô thành phố, tôi thường thì thào: “Con gái Liên Xô đẹp nhất thế giới”. Nàng chỉnh lại: “Con gái Ucren chứ.” Tôi và không chỉ tôi mà tất cả những du học sinh Quân sự không phân biệt rạch ròi như thế, dù người Nga, người Ucraina hoặc Belarut đều gọi chung một từ trìu mến: “Nga ngố”, xuất phát từ tính tình hiền lành nhân hậu của họ. Tôi mê mẩn cùng nàng mỗi ngày chủ nhật. Khu rừng xanh mơn mởn mơn mởn lúc xuân sang, đỏ rực, vàng ươm khi mùa thu tới, trắng xóa khi đông về. Và những người con gái má đỏ hây hây như trái táo chín cây. Tình cảm của chúng tôi ngày một lớn lên cùng với vốn ngoại ngữ được cải thiện. Chúng tôi không còn ngơ ngác như ngày đầu nữa dù lượng kiến thức về kỹ thuật tên lửa luôn là thử thách với tất cả mọi người.
Một sự cố xảy ra mà đến tận bây giờ tôi vẫn chưa có điều kiện giải thích. Hôm ấy, chúng tôi dìu nhau đi trong cái lạnh tê người giữa mênh mông, trắng xóa của tuyết và lặng vắng, chả ai dại gì dầm mình trong tuyết, nàng cũng thế nhưng vẫn đi đơn giản là chiều tôi. Tôi muốn được một lần đi trong tuyết trắng vì biết sẽ rất khó có một lần như thế nữa. Tôi bế nàng như bồng trẻ nhỏ, nàng quàng tay qua cổ tôi, hôn lên môi tôi, cái hôn đầu tiên nồng nàn đằm thắm. Tôi mê dại đắm chìm trong nụ hôn đầu đời ấy… (thêm 1 chi tiết ) Chuyện không có gì nếu tôi không  phũ phàng đặt nàng xuống và quay người đi như chạy trở về, đơn giản là tôi sợ, sợ ai đó bắt gặp, sợ bị đuổi về nước, sợ bị kỷ luật vì vi phạm quy chế. Hành động đó ở Việt Nam có thể được châm chước vì lý do nào đấy nhưng ở Liên Xô như thế bị coi là khinh người, là không thể được tha thứ. Tôi không còn dịp sửa sai vì khóa học kết thúc sớm hơn dự kiến. Trong lúc mọi người tất tả lùng mua hàng hóa, tôi mải miết đi tìm nàng, nhưng không gặp, nàng tránh mặt, không cho tôi cơ hội để hàng chục năm nay tôi mang trong mình nỗi ân hận không vơi. Và bây giờ lại chiến tranh, chiến tranh trên mảnh đất của nàng, chiến tranh vốn tàn khốc, nhất là với người già, phụ nữ và trẻ em. Tôi buông tiếng thở dài:
          - Không biết có kịp đi lánh nạn không.- Bất giác tôi bật lên thành tiếng.
          Cuộc tranh luận về chính nghĩa, phi nghĩa lập tức dừng lại dù ngay trước đấy vẫn đang tranh cãi quyết liệt.
  • Ông nói ai kịp đi lánh nạn? Nghe cái giọng này chắc chắn liên quan đến đàn bà. Nếu không bí mật thì kể đi.
- Chẳng liên quan gì đến đàn bà hết.- Tôi chống chế. Tôi đang lo lắng cho một người bạn sát cánh cùng chúng tôi trong kháng chiến chống Mỹ. Anh ấy là chuyên gia Liên Xô, người Ucraina, tên là Vinasky. Có một giai đoạn cực kỳ khó khăn của cánh kỹ thuật chúng tôi. Tên lửa không rời bệ phóng hoặc không thể điều khiển và tệ hơn có thể rơi xuống gây nên hiểm họa bất ngờ. Nguyên do: Mỹ thu được các bộ khí tài tên lửa như trang bị của ta trong cuộc chiến giữa Itxraen và Ai cập, đã dùng kỹ thuật điện tử chế áp gây nhiễu rãnh đạn. Nhiệm vụ đặt ra cho ngành kỹ thuật, phải khắc phục bằng bất cứ giá nào. Sau nhiều ngày nghiên cứu nhóm chuyên gia cùng cán bộ kỹ thuật của ta đã khắc chế thành công góp phần không nhỏ trong trận chiến trên bầu trời Hà Nội năm 1972. Anh có một mối tình tuyệt vời ở Việt Nam. Con của họ cũng là chiến sỹ Quân đội ta.
          - Sự thể thế nào, ông kể đi.
Kết thúc khóa học ở Liên Xô, tôi về phòng tên lửa thuộc Cục kỹ thuật Quân chủng. Đó là những năm cuối của thập niên sáu mươi. Mỹ tuyên bố dừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra, tập trung đánh phá dải đất hình “cán xoong” và nơi đó trở thành nơi đấu trí, đấu lực quyết liệt giữa ta và lực lượng Không quân, Hải quân Mỹ. Ta đưa những đơn vị phòng không tốt nhất vào chiến trường, vừa rèn luyện vừa tìm ra cách đánh hiệu quả vì biết gần như chắc chắn cuộc chiến sẽ chỉ dừng lại khi Mỹ không còn khả năng khuất phục được nhân dân ta. Các đơn vị tên lửa lần lượt lên đường. Tổ bảo đảm kỹ thuật được thành lập. Những cán bộ có trình độ tốt nhất, phương tiện bảo đảm được ưu tiên đặc biệt. Xe công trình xa và xe ba cầu đặc chủng lần đầu tiên được trang bị, một đường dây liên lạc được thiết lập để tổ công tác có thể gọi về Cục kỹ thuật bất cứ lúc nào. Vinasky được đoàn chuyên gia cố vấn cử đi cùng tổ của chúng tôi. Có anh chúng tôi tự tin lên nhiều lắm. Thông thường vào cuối buổi chúng tôi liên lạc về trung tâm chỉ huy báo cáo công tác và xin ý kiến về kế hoạch tiếp theo. Gần như ngay lập tức cuộc gọi được tiếp nối và bao giờ cũng bắt đầu bằng: “Tổng đài xin nghe” hoặc “K10 xin nghe”. Tiếng nói thánh thót xua bớt những mệt nhọc nguy hiểm. Vinasky “nghiện” giọng nói của cô điện thoại viên, luôn giành phần gọi đầu dù không biết tiếng Việt chỉ để nghe tiếng phụ nữ “trong như tiếng hát”. Sự kiện không may của chúng tôi nhưng may cho anh nếu xét về một góc độ rất hẹp nào đó. Xe đặc chủng bị trúng bom ở bến phà Long Đại. Đây là trọng điểm, một tọa độ lửa nằm quãng ngã ba sông Kiến Giang và sông Long Đại. Một số trang thiết bị đặc chủng bị hư hỏng, tôi và anh được lệnh quay ra nhận khí tài bổ sung. Công việc tiếp nhận nhanh chóng hoàng thành, chúng tôi gấp rút chuẩn bị quay lại chiến trường. Trước hôm đi anh nằng nặc yêu cầu tôi đưa đến gặp người con gái thông tin có giọng nói như “chim hót” ấy. Cô tên Thu người đảm trách nhiệm vụ nối thông đường dây liên lạc giữa nhóm chúng tôi với cơ quan Bộ Tư Lệnh. Anh ngồi hàng giờ, nhìn như thôi miên đôi bàn tay múa trên các cửa và phích cắm của Tổng đài. Chờ hết ca trực, ba chúng tôi ngồi quanh chiếc bàn bê tông kê dưới tán cây xà cừ trong sở chỉ huy.
“Cháo em” (Chào em) anh chào bằng tiếng Việt Nam lơ lớ. “Xin chào”, cô gái đáp bằng tiếng Nga khá chuẩn. Anh vui mừng “xổ” ra hàng tràng dài đại ý: “Chúng tôi rất vui mỗi khi nghe tiếng em trong mỗi phiên liên lạc, em là thần hộ mệnh của chúng tôi...” và nhiều thứ nữa. Tôi phải giơ tay ra hiệu anh mới dừng lại.
          - Ơ, tôi tưởng cô ấy biết tiếng Nga, cô ấy nói chuẩn thế cơ mà.- Anh ngượng ngịu khi tôi nói cô ấy chẳng hiểu anh nói gì.
          - Ở Việt Nam, học hết cấp ba ai cũng nói được vài câu tiếng Nga đơn giản.- Tôi đáp.
           Cuộc gặp không để lại ấn tượng gì trong tôi nhưng với họ thì khác. Tôi trở thành phiên dịch, dịch giả bất đắc dĩ của hai người. Những bức thư dằng dặc vài trang giấy poluya là thử thách đối với tôi vì muốn dịch văn học thì phải là nhà văn trong khi tôi chưa viết thư tình cho ai bao giờ, anh lại dùng rất nhiều từ tiếng lóng và ẩn dụ. Khả năng của tôi chỉ có thể truyền tải những điều cần thiết nhất của một bức thư tình. Không biết họ có hiểu không nhưng dường như tình cảm của họ đằm thắm hơn. Trong những ngày tháng ác liệt, sự sống và cái chết cách nhau gang tấc, họ vẫn hướng về nhau, cố tranh thủ “vượt rào” xen giữa các buổi liên lạc. Nguyên tắc không cho phép nói điều gì ngoài nhiệm vụ nên anh thường làm như vô tình đi qua nói vọng vào một câu bâng quơ thật ngắn: “YatyeBYAlyuBLYU” (Anh yêu em- Tiếng Nga). “Vâng”, cũng chỉ một tiếng đáp dường như vô tình như thế. “Em chỉ cần có thế, biết các anh vẫn khỏe mạnh, an toàn là tốt rồi”.- Cô gái viết trong thư gửi cho Vinasky. Dường như tình yêu đã che chở cho họ, bom đạn mù trời mà không hề hấn gì và tình yêu của họ cũng lạ lắm không nói được tiếng của nhau nhưng như hiểu hết. Người ta nói: Tình yêu có ngôn ngữ riêng có nó, chắc đúng là như thế.
          Chuyến công tác kết thúc, anh trở về đoàn, chúng tôi không ở cùng nhau nữa. Công việc bận rộn, tôi cũng quên đi mối tình của hai người cho đến một ngày anh xộc vào chỗ tôi, cười ngất. Nụ cười đáng mến, như chúng tôi thường nói: “Cười như Liên Xô”.
          - Mình sắp có con rồi.- Anh nói mặt tươi hơn hớn.
          Tôi giật mình: “Cái gì, anh nói cái gì”.
          - Tớ sắp có con rồi.- Anh nhắc lại.
Trời ơi. Tôi rên lên. Muốn nói như thế là “hủ hóa”, là giết chết sự nghiệp của người đàn bà, đây là Việt Nam, là đất nước đang có chiến tranh, là làn ranh không thể vượt qua. Sự thương cảm xen lẫn tức giận và vốn từ không đủ để anh hiểu sự việc nghiêm trọng đến mức nào, nên tôi chỉ nói ngắn gọn: “Thời hạn phục vụ tại ngũ của cô ấy sắp hết, anh có nghĩ đến tương lai sau này không”. Anh lại cười, hồn nhiên vô lo, nguyên do có sự khác nhau giữa hai nền văn hóa...
          Thu đến chào và đưa cho tôi lá thư gửi cho Vinasky: “Anh dịch và đưa giúp em”. “Sao em không gặp anh ấy”.- Tôi hỏi. “Thôi anh ạ, không giải quyết được gì, lại làm khó nhau”. Tôi nhìn theo chiếc bóng xiêu xiêu trong bộ quân phục bạc màu, không quân hàm, quân hiệu, chiếc ba lô xẹp lép trĩu nặng bước qua cánh cổng sơn xanh, lòng quặn thắt ân hận vì cảm thấy phần nào có lỗi. Tôi đưa lá thư đã được dịch khá sát. Anh lồng lộn như con gấu bị thương, trút sang tôi tất cả sự giận dữ làm như tôi là nguyên nhân gây nên sự bất hạnh của họ. Tôi lặng yên chịu trận, thương sót cho mối tình của hai người...
          Tôi được lệnh tăng cường cho Sư đoàn phòng không tham gia chiến dịch Trị Thiên. “Mùa hè đỏ lửa” hút hết tâm trí và sức lực của tôi, không biết anh và những cán bộ kỹ thuật phải đương đầu với những khó khăn tưởng như không thể vượt qua. Đó là khắc phục nhiễu, một loại hình tác chiến điện tử được Mỹ đặc biệt quan tâm và cải tiến không ngừng. Có loại nhiễu trong đội hình, ngoài đội hình, nhiễu tích cực, nhiễu tiêu cực, làm “mù” ra đa, nhiễu loạn thông tin liên lạc. Có trận chúng ta mất gần trăm quả tên lửa mà không hạ nổi một máy bay. Cuối cùng bằng lòng quả cảm và trí tuệ Việt Nam được sự giúp đỡ của các chuyên gia chúng ta đã làm nên trận “Điện Biên Phủ trên không”.
Sau hiệp định Pari, tôi trở về cơ quan được biết anh đã về nước. Anh gửi lại nhờ tôi chuyển cho Thu chiếc hộp làm từ xác B52G do đơn vị anh tham gia bắn rơi trong trận chiến 12 ngày đêm năm 1972. Quyển nhật ký, bức thư, những kỷ niệm của hai người được anh giữ gìn cẩn thận. Tôi tranh thủ dịch ra tiếng Việt, dự định sẽ mang đến tận tay Thu, hoàn thành việc ủy thác trước khi cùng nhóm sỹ quan tác chiến vào Tây nguyên chuẩn bị cho chiến dịch giải phóng Miền Nam nhưng chỉ nhận được cái lắc đầu và những lời nói cay độc: “Thu chửa hoang chứ gì, xấu hổ quá bỏ làng ra đi rồi” và “Ông bà ấy cũng đi cùng con gái, mặt mũi nào mà ở làng được nữa” “Đi đâu à, chả biết”... Do vậy gần hai chục năm sau tôi mới hoàn thành công việc này.
          ***
          Sau giải phóng, tôi công tác tại Sư đoàn phòng không Thành phố Hồ Chí Minh, lấy vợ sinh con và định cư ở đó. Thỉnh thoảng đôi lúc nhói lên câu chuyện tình của tôi ở Ucraina và truyện tình của anh nhưng đành chấp nhận, có phải cái gì trên đời cũng toại nguyện đâu...
          Cuộc sống vốn vô thường, không ai có thể biết trước được gì. Là sỹ quan kỹ thuật chuyên ngành tên lửa, tôi được bổ nhiệm Trung đoàn phó kỹ thuật của trung đoàn bộ binh tham gia cuộc chiến biên giới Tây Nam và giúp bạn thoát khỏi nạn diệt chủng. Một công việc nếu xét đơn thuần về chuyên môn không thật phù hợp. Nhưng nhiệm vụ là nhiệm vụ, vả lại khi ấy các đơn vị bộ binh được mở ra, theo biên chế mới mỗi Trung đoàn có thêm một Trung đoàn phó kỹ thuật. Tôi được đào tạo ở Liên Xô, đã qua chiến đấu, được bổ nhiệm cũng không có gì bất ngờ. “Cứ làm rồi sẽ thành thạo thôi”.- Trưởng phòng cán bộ nói khi trao quyết định. Nhờ đó tôi đã gặp con của Vinasky và Thu.
Cuộc chiến chống lại quân đội của lũ diệt chủng không giống với cuộc chiến tranh giải phóng. Trước kia ta chủ động, điều nghiên kỹ, chọn mục tiêu tiến công phù hợp với sở trường của đơn vị, giờ luôn bất ngờ, ở vào thế bị động phòng ngự. Với bọn “ma lanh” này khó biết trước mục tiêu của chúng. Hôm ấy, nhiều đơn vị Pốt đánh vào Hậu cứ Trung đoàn do tôi phụ trách, thường ở phía sau cách khá xa nơi đơn vị tác chiến. Về lý thuyết tương đối an toàn nhưng đối với bọn ranh ma quỷ quyệt, giỏi đánh du kích thì chẳng nơi nào an toàn tuyệt đối. Lực lượng ở hậu cứ chủ yếu là cán bộ nhân viên hậu cần kỹ thuật, sức khỏe không được tốt, năng lực chiến đấu hạn chế, vũ khí chủ lực là một đại liên M60 của Mỹ và một B40 còn lại là AK,  phải đương đầu với lực lượng tương đối thiện chiến, hỏa lực mạnh. Rõ ràng bất lợi thuộc về chúng tôi. Chúng tôi cầm cự chờ lực lượng tiếp viện. Bọn Pốt hiểu điều đó nên tìm mọi cách dứt điểm nhanh. Chúng tôi vẫn vững, khẩu đại liên phát huy tối đa hỏa lực chủ yếu, xạ thủ là một thanh niên cao to, thoát ẩn thoát hiện ở các vị trí then chốt khiến địch lúng túng, không nắm chắc được thực lực của đối phương. Sau nhiều giờ không chiếm được căn cứ, phát hiện lực lượng chủ lực của ta đang cơ động tới, chúng vội vã rút lui. Sau trận chiến tôi xuống trung đội vệ binh, nơi cậu chiến sỹ giữ đại liên công tác:
          - Cậu đẹp trai như Tây ấy nhỉ.- Tôi mở đầu.
          - Vâng em một nửa là Tây mà.- Cậu ta cười hồn nhiên rồi nói tiếp: Bố em người Liên xô.
           Trước đây thỉnh thoảng giáp mặt nhưng tôi không chú ý lắm nay nghe cậu ta nói, tôi nhận ra những nét quen quen. Lẽ nào là con của Vinasky và Thu? Sao lại có sự trùng hợp như thế?
          - Cậu đã đủ tuổi đâu mà sang đây? Tôi hỏi thăm dò.
          - Vâng, em khai tăng 2 tuổi, do to cao nên không ai nghi ngờ, mà sao Thủ trưởng biết ạ?
          - Cậu con mẹ Thu, đúng không?- Tôi hỏi như khẳng định.
          Không cần câu trả lời, tôi nói: “Tớ là người chứng kiến, là cầu nối giữa bố và mẹ cậu”.
          - Bác là bác Huy phải không, mẹ cháu kể về bác nhiều lắm, bác là phiên dịch và là dịch giả bất đắc dĩ cho ba mẹ cháu.- Cậu ta đổi cách xưng hô.
          - Thôi được rồi, bây giờ kể đi, mẹ con sinh sống thế nào sau khi đi khỏi quê.
- Sau khi xuất ngũ, mẹ cháu được yêu cầu tham gia công tác, những quân nhân từ chiến trường về bao giờ cũng được địa phương giao một công việc gì đó. Mẹ cháu lấy lý do sức khỏe nên không nhận, vì việc ấy cũng vướng lắm chuyện lùm xùm như “tự cao tự đại, có mấy năm quân ngũ mà làm như danh giá lắm”... Những tưởng chỉ dừng ở đấy nhưng không phải, đó mới chỉ bắt đầu. Ở vùng quê cổ hủ nhiều định kiến, người đàn bà không chồng mà chửa bị coi như “trọng tội”. Không thể sống được với những hủ tục đó, ông bà cháu quyết định đưa cả nhà lên vùng Yên Thế, ngày ấy còn hoang vu lắm, chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số. Những người dân hiền lành chất phác, đôn hậu không chú ý đến hình dáng của cháu, cuộc sống tạm ổn định dù điều kiện sinh hoạt còn nhiều khói khăn, thiếu thốn. Tuy nhiên mẹ cháu vẫn có vẻ không vui nhất là những ngày mùa đông cuối năm. Cháu nhiều lần bắt gặp mẹ ngồi một mình bần thần: “Mẹ đã không mang đến cho con cuộc sống đủ đầy”. Cháu nói: “Con chỉ cần thế này”. “Nhưng con cần phải biết và gặp bố”. Cháu hiểu đó là ước vọng cháy bỏng của mẹ và để thực hiện ước mơ đó, con đường duy nhất phải học thật giỏi, đủ điều kiện đi học nước ngoài. Cháu đạt giải nhất trong kỳ thi học sinh giỏi toàn quốc và tốt nghiệp cấp 3 khi chưa đầy 16 tuổi. Những tưởng con đường đến với đất nước Liên Xô vĩ đại, nơi có ông bố chưa biết mặt của cháu đã rộng mở ai ngờ ngay cả các trường trong nước cũng không nhận, lý do: có “xuất xứ” không rõ ràng. Cháu tình nguyện nhập ngũ vì đó là con đường duy nhất để thoát khỏi sự kiềm tỏa của mấy vị cán bộ địa phương ít học nhưng quan liêu và lộng quyền. Sau huấn luyện, tham gia bảo vệ biên giới rồi sang đây theo đề nghị của nhân dân nước bạn.
          - Không ai có ý kiến gì à.- Tôi hỏi.
          - Ông bà phản đối quyết liệt, mẹ cháu thì không. Trước ngày lên đường mẹ đưa cho cháu những bức thư của ba và nói: “Cơ hội chưa phải là hết, vẫn có thể nếu con cố gắng”...
          ***
Kết thúc chiến tranh. Quân đội chủ trương cho cán bộ, chiến sỹ đi lao động hợp tác Quốc tế ở các nước Xã Hội Chủ Nghĩa. Bằng mọi biện pháp, tôi đã xin cho cháu đi Liên Xô. Trước ngày lên đường Thu và cháu vào Sài Gòn gặp tôi. Tôi trao cho Thu món quà được ủy thác. Ôm kỷ vật vào lòng, Thu nói: “Thế là em sắp hoàn thành ước vọng của mình”.
          Đất nước Liên Xô rộng lớn, cháu ở Yakutsk cách Kiép chục ngàn Ki-lô-mét nên bố con họ chưa có điều kiện gặp nhau. Mãi đến năm 1991 Liên bang Xô Viết sụp đổ. Ucraina trở thành quốc gia độc lập, Vinasky sang đón cháu về và định cư bên đó. Chúng tôi vẫn thư từ cho nhau. Năm 2014 tình hình bất ổn việc liên lạc giữa chúng tôi ngắt quãng và bây giờ là chiến tranh với tất cả sự tàn khốc của nó. Không ai biết trước điều gì sẽ xảy ra...
          Mọi người lặng đi. Mãi sau người sỹ quan quân đội nghỉ hưu lên tiếng: “Là dân tộc đã qua nhiều cuộc chiến tranh, hiểu rất rõ cái giá của hòa bình. Hơn bao giờ hết chúng ta mong muốn yên bình cho tất cả loài người và phản đối chiến tranh cho dù với bất cứ lý do nào”.

 
Nam Định, tháng 5 năm 2022.
Trương Ngọc Hùng

tin tức liên quan