“ĐẠI THẮNG MÙA XUÂN”
ĐẠI TƯỚNG VĂN TIẾN DŨNG
Chương 9
THỪA THẮNG
Khi Mặt trận Tây Nguyên nổ súng thì ở Trị Thiên quân ta cũng mở đầu hoạt động phối hợp, tiến công địch ở cả giáp ranh và đồng bằng. Lực lượng vũ trang quân khu đã bao vây trên một diện rộng các căn cứ địch, diệt và bức rút một số đồn bốt, đồng thời đẩy mạnh đánh phá các hậu cứ, kho tàng, cắt đường giao thông của địch. Lực lượng Quân đoàn 2 tiến công địch trên tuyến tây nam Huế ở khu vực Núi Bông, Núi Nghệ, diệt được một số căn cứ của chúng và liên tục đánh phản kích, tiêu diệt một bộ phận, kìm chân lực lượng cơ động, không cho chúng rút khỏi Trị Thiên. Ở đồng bằng, 7 tiểu đoàn bộ đội địa phương của ta cùng với 100 đội vũ trang công tác thọc xuống vùng sâu cùng lực lượng vũ trang tại chỗ và nhân dân trong cả 8 huyện đồng loạt nổ súng tiến công địch, tiêu diệt quận lỵ Mai Lĩnh, diệt gọn 11 phân chi khu trong số 30 phân chi khu bị tấn công, tiến hành vũ trang tuyên truyền trên một diện rộng gồm 53 xã với trên 2 vạn dân, sau khi địch bị thất bại nặng ở Tây Nguyên, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương kịp thời chỉ đạo Mặt trận Trị Thiên và Quân đoàn 2 nhận rõ thời cơ nhanh chóng chuyển hướng tiến công. Ngày 18 tháng 3, phán đoán địch có thể rút bỏ Huế, đưa Sư đoàn bộ binh 1 nguỵ vào Đà Nẵng và tổ chức phòng thủ từ đèo Hải Vân trở vào Nam, Bộ Tổng Tư lệnh chỉ thị cho Quân khu Trị Thiên do Thiếu tướng Lê Tự Đồng làm Tư lệnh kiêm Chính uỷ Quan khu và Quân đoàn 2 phải táo bạo đưa lực lượng thọc qua tuyến phòng thủ bên ngoài cắt đứt đường số 1 và áp sát Huế, nhằm mục tiêu trước mắt là tiêu diệt Sư đoàn bộ binh 1 không cho chúng rút về Đà Nẵng, giải phóng Huế và toàn bộ Trị Thiên. Ngày 19 tháng 3, các lực lượng vũ trang địa phương Quảng Trị nắm kịp thời cơ chuyển sang tiến công giải phóng thị xã và toàn bộ tỉnh Quảng Trị. Tuyến phòng thủ phía bắc của địch, bị vỡ một mảng lớn, địch co về phòng thủ tuyến nam sông Mỹ Chánh. Trong lúc đó Ngô Quang Trưởng, Trung tướng Tư lệnh Quân khu 1 nguỵ huênh hoang trên đài phát thanh Huế: "Tôi sẽ chết trên đường phố Huế. Việt cộng phải bước qua xác tôi mới vô được cố đô này", còn Thiệu thì ba hoa trên đài Sài Gòn: "Bỏ Kon Tum, Pleiku để bảo toàn lực lượng, còn Đà Nẵng, Huế, Quân khu 3, Quân khu 4 sẽ phải giữ đến cùng". Chấp hành mệnh lệnh của Bộ Tổng tư lệnh, ngày 21 tháng 3, từ ba hướng bắc, tây và nam, các lực lượng Quân khu Trị Thiên và Quân đoàn 2 đồng loạt tiến công vượt qua các tuyến phòng thủ của địch, hình thành nhiều mũi bao vây Huế, đánh thiệt hại nặng Sư đoàn 1 bộ binh nguỵ, Lữ 147 thuỷ quân lục chiến nguỵ, cắt đứt Huếvà Đà Nẵng trên đoạn đường số 1 ở Mũi Né - Bái Sơn. Hàng nghìn xe di tản từ Huế vào Đà Nẵng phải quay lại trong cảnh rối loạn. Pháo binh tầm xa của ta chế áp căn cứ Đống Đa, Mang Cá, bắn phá sân bay Phú Bài. Đường bộ bị cắt, đường không bị triệt, địch chỉ còn một lối thoát là rút chạy ra biển theo cửa Thuận An và cửa Tư Hiền. Con đường Huế - cửa Thuận An là niềm hy vọng cuối cùng của chúng, nhưng thực tế đã biến thành con đường chết đối với chúng. Nắm vững ý đồ muốn tẩu thoát của địch, pháo ta một mặt khống chế chặt cửa Thuận An và không cho tàu địch vào đón bọn rút lui, mặt khác, bắn tập trung vào đội hình dày đặc của địch còn lại ở cửa Thuận An và cửa Tư Hiền làm cho chúng bị thiệt hại nặng nề. Bộ đội đặc công cũng thả mìn phong toả cửa Thuận An. Xe tăng, xe bọc thép, xe vận tải và hàng chục nghìn lính địch kéo đi kín đường bị pháo ta bắn, đạp nhau mà chạy, bắn nhau để lấy đường chạy. Ngày 25 tháng 3, các cánh quân của ta đã kịp hợp vây tiêu diệt và làm tan rã quân địch rút lui còn lại ở cửa Thuận An và cửa Tư Hiền, đồng thời từ nhiều hướng, quân ta tiến công vào thành phố. Đúng 10 giờ 30 phút, lá cờ cách mạng được kéo lên đỉnh cột cờ trước Ngọ Môn. Thành phố Huế hoàn toàn được giải phóng, người dân Huế sau 7 năm chờ đợi kể từ Tết Mậu Thân năm 1968, nay lại được thấy lá cờ cách mạng hiên ngang tung bay trước gió. Trong quá trình bộ đội tiến hành bao vây chia cắt và truy kích địch, quần chúng đứng lên phối hợp hành động bằng cách dẫn đường cho bộ đội, chỉ đường địch chạy cho quân ta đuổi truy lùng địch lẩn trốn, giúp đỡ bộ đội vượt sông, diệt bắt tề điệp ác ôn làm cho địch càng nhanh chóng tan rã. Sư đoàn 1 nguỵ từng được Mỹ coi là sư đoàn thiện chiến của quân nguỵ bị tiêu diệt và tan rã. Tiêu diệt Sư đoàn 1 bộ binh nguỵ, giải phóng thành phố Huế và toàn bộ Trị Thiên, ta đã giáng một đòn nặng vào âm mưu co cụm chiến lược của địch, làm suy yếu và uy hiếp nặng nề Quân đoàn 1 nguỵ. Chiều ngày 26 tháng 3, trong nhà hầm chỉ huy, tôi đang xem xét lại kế hoạch thực hiện lệnh thành lập Quân đoàn 3 của Bộ Tổng tư lệnh và tổ chức lực lượng bảo vệ Tây Nguyên sau khi giải phóng, suy nghĩ về cách tiếp tục phát triển các binh đoàn Tây Nguyên và chuẩn bị cho kế hoạch di chuyển hậu cần, trinh sát đi vào miền Đông Nam Bộ, thì đồng chí Nguyễn Tuyến đến báo cho biết tin Huế được hoàn toàn giải phóng. Tôi không nén được xúc động. Huế được giải phóng vĩnh viễn rồi, không phải ta chỉ làm chủ quyết liệt được 25 ngày đêm như Tết Mậu Thân năm 1968. Các đồng chí Trần Văn Quang, Lê Quang Đạo, Trần Quý Hai cũng như các anh em trong Bộ Tư lệnh, các đơn vị bộ đội, tham gia cuộc tổng tiến công và nổi dậy trên mặt trận Huế, đường số 9, Khe Sanh, Quảng Trị mùa Xuân 1968 nghe được tin này chắc là cũng vui mừng khôn tả. Tôi châm lửa vào điếu thuốc. Tôi đã "cai" thuốc từ lâu, nhưng mỗi lần giải quyết được một vấn đề gì gai góc, giành được một thắng lợi gì lớn, được tin một chiến thắng xuất sắc thì hút một điếu cho vui. Hoạt động phối hợp với Mặt trận Tây Nguyên, các lực lượng vũ trang Quân khu 5, do đồng chí Thượng tướng Chu Huy Mân làm Tư lệnh và đồng chí Võ Chí Công làm Chính uỷ Quân khu, ngoài việc dùng Sư đoàn 3 đánh địch và cắt đường số 19, đã giải phóng Tiên Phước, Phước Lâm, đánh bại quân địch phản kích, buộc địch rút khỏi Sơn Hà, Trà Bồng, giải phóng gần hết vùng giáp ranh, đồng thời đẩy mạnh đánh phá bình định ở đồng bằng, nhất là ở Quảng Ngãi và Bình Định. Sau khi ta giành thắng lợi lớn ở Tây Nguyên, Khu uỷ và Bộ Tư lệnh Quân khu 5, nhạy bén trước thời cơ mới, đã bỏ kế hoạch phát triển về phía nam, chuyển hướng tiến công về phía bắc nhằm tạo điều kiện cho việc giải phóng Đà Nẵng. Sau ngày 18 tháng 3, Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh cũng chỉ thị cho Khu 5 nhận rõ thời cơ mới đang xuất hiện, đẩy mạnh tiến công với tinh thần khẩn trương và mạnh bạo, nhanh chóng phá vỡ tuyến giáp ranh, tiến xuống cắt đứt đường số 1, đoạn đường giữa Đà Nẵng và Tam Kỳ, tiêu diệt Sư đoàn bộ binh số 2 nguỵ, không cho chúng co cụm về Đà Nẵng, tổ chức pháo kích Đà Nẵng và chuẩn bị tích cực và khẩn trương cho trận đánh Đà Nẵng. Chấp hành chỉ thị nói trên, ngày 21 tháng 3, một Trung đoàn thuộc Sư đoàn 2 của ta đánh chiếm Tuần Dưỡng, cắt đường bộ từ Tam Kỳ ra Đà Nẵng, đánh thiệt hại nặng Trung đoàn 5 thuộc Sư đoàn 2 nguỵ, uy hiếp Tam Kỳ, kéo Sư đoàn 2 nguỵ từ Quảng Ngãi ra để tiêu diệt; nhân cơ hội đó dùng một lực lượng khác thọc nhanh, giải phóng Quảng Ngãi. Ngày 22 tháng 3, Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh lại nhận định: "Địch đang rút khỏi Huế và cũng không loại trừ khả năng chúng rút bỏ Đà Nẵng", chỉ đạo Khu 5 chuẩn bị tích cực đánh Đà Nẵng theo phương án đã dự kiến. Ngày hôm sau, trước tình hình Trị Thiên đang phát triển rất nhanh và quán triệt các chỉ thị của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương, Thường vụ khu uỷ Khu 5 họp mở rộng, hạ quyết tâm mới: "Động viên toàn đảng bộ, toàn dân trong Khu phấn đấu trong thời gian ngắn nhất, giải phóng hoàn toàn Khu 5". Trong hai ngày 24 và 25 tháng 3, Sư đoàn 2 của quân khu phối hợp với bộ đội địa phương tiêu diệt và làm tan rã Trung đoàn 4 và Trung đoàn 5 của Sư đoàn 2 nguỵ, giải phóng Tam Kỳ và Tuần Dưỡng. Lực lượng địa phương Quảng Ngãi phối hợp với quần chúng tiến công và nổi dậy giải phóng phía bắc tỉnh. Ta phát triển tiến công chiếm căn cứ Chu Lai, đồng thời lực lượng vũ trang, chính trị Quảng Ngãi liên tiếp tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Ngãi. Việc giải phóng Quảng Ngãi, Tam Kỳ, Tuần Dưỡng và tiêu diệt những sinh lực ở đây làm cho thế phòng thủ của địch ở Đà Nẵng bị uy hiếp thêm về phía nam. Thiệu ở Sài Gòn lại kêu gọi "tử thủ Đà Nẵng", Mỹ - nguỵ cũng có ý định nếu chúng không giữ được thì cũng phải "trì hoãn" một - hai tháng để tranh thủ thời gian, bố trí lại thế phòng ngự chiến lược đang tan vỡ từng mảng lớn, đồng thời di tản một triệụ dân hòng gây tác động chính trị xấu cho ta, đẩy mạnh hoạt động ngoại giao hòng gây sức ép để buộc ta ngừng tấn công. Tên Thiếu tướng Tham mưu phó Bộ Tổng Tham mưu nguỵ Nguyễn Xuân Trang được lệnh hoả tốc ra Đà Nẵng kiểm tra tình hình và chuyển từ tổng kho Long Bình ra Đà Nẵng 20.000 khẩu súng để bổ sung cho các đơn vị ở đây. Kế hoạch của địch phòng thủ Quảng Nam - Đà Nẵng được vạch ra nhằm thu hẹp phạm vi phòng thủ, tập trung Sư đoàn thuỷ quân lục chiến, Sư đoàn 3 bộ binh và các đơn vị quân chủng, binh chủng để cố thủ Đà Nẵng. Ngày 25 tháng 3, Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh, trên cơ sở nhận định: "Sau khi mất Huế, Tam Kỳ, Quảng Ngãi, Chu Lai, địch dù có muốn giữ Đà Nẵng cũng không thể được", quyết định mở trận tiến công Đà Nẵng với tư tưởng chỉ đạo "kịp thời nhất, nhanh chóng nhất, táo bạo nhất, bất ngờ nhất và chắc thắng", và chỉ thị cho Quân đoàn 2 và Khu 5 "hành động táo bạo, bất ngờ, làm cho địch không kịp trở tay, tập trung lực lượng diệt sinh lực lớn của địch ở Đà Nẵng, chủ yếu là Sư đoàn thuỷ quân lục chiến và Sư đoàn 3 nguỵ, giành thắng lợi lớn trong trận quyết chiến này, tạo điều kiện cho trận quyết chiến chiến lược sau". Để chỉ huy trận đánh quan trọng này, ngày 25 tháng 3, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương quyết định thành lập Bộ Tư lệnh Mặt trận Quảng Đà, gồm các đồng chí Trung tướng Lê Trọng Tấn làm Tư lệnh, đồng chí Thượng tướng Chu Huy Mân làm Chính uỷ. Đồng chí Lê Trọng Tấn đáp máy bay từ Hà Nội vào Gio Linh. Lúc đó đồng chí Chu Huy Mân đang chỉ huy một cánh quân ở rất xa, giữa Quảng Tín và Quảng Ngãi. Muốn chỉ huy đánh Đà Nẵng phải lập sở chỉ huy ở phía tây Đà Nẵng. Đồng chí Lê Trọng Tấn tới Quảng Trị liền rẽ lên A Lưới theo đường phía đông Trường Sơn rồi vòng về phía tây Đà Nẵng. Đồng chí dùng tổng trạm điện thoại giữa đường để bắt liên lạc với các cánh quân. Thấy tình hình rất gấp, đồng chí dùng điện đài làm việc với đồng chí Chu Huy Mân, thống nhất cách tác chiến. Bộ Tư lệnh và Đảng uỷ Mặt trận Quảng Đà như thế là vẫn chưa gặp mặt nhau. Trong những ngày này, tôi cũng rất nóng ruột về tình hình Khu 5. Ở xa, không nắm được tình hình cụ thể, tôi điện cho đồng chí Hoàng Văn Thái, Phó Tổng Tham mưu trưởng, nên chỉ thị cho Quân đoàn 2 gồm các Sư đoàn 304, 324, 325 triển khai ngay pháo tầm xa khống chế sân bay và cảng Đà Nẵng, nhanh chóng cùng với lực lượng Quân khu 5 tiêu diệt tập đoàn địch co cụm ở Đà Nẵng. Làm được như thế thì sẽ đỡ cho chiến trường Nam Bộ trong bước tới. Cũng cần tăng cường chỉ huy đối với trận đánh quan trọng này. Từ ngày 25 tháng 3, thành phố Đà Nẵng trở nên hỗn loạn. Các lực lượng của ta tiến nhanh áp sát thành phố. Địch buộc phải bỏ kế hoạch co cụm ở Đà Nẵng và bắt đầu dùng máy bay Boeing 727 và máy bay lên thẳng di tản bọn cố vấn Mỹ và một phần lực lượng nguỵ. Chúng tranh nhau lên máy bay, gây ra cảnh huyên náo, ẩu đả ở sân bay. Có những tên bị bánh máy bay đè nát trên đường băng hoặc mắc kẹt trong càng máy bay lên thẳng. Binh lính, sĩ quan nguỵ cùng gia đình chen nhau chạy. Sư đoàn thuỷ quân lục chiến địch trước khi rút chạy gây ra nhiều vụ cướp bóc, bắn nhau và hãm hiếp phụ nữ. 3.200 tân binh địch ở trung tâm huấn luyện Hoà Cầm nổi dậy đấu tranh bỏ ngũ chạy ra với cách mạng hoặc về nhà. Pháo lớn của ta bắt đầu bắn vào sân bay Đà Nẵng, căn cứ Hoà Khánh, nơi Bộ Tư lệnh Sư đoàn 3 nguỵ đóng, cảng Sơn Trà, Sở chỉ huy Sư đoàn ở Non Nước làm cho địch trong thành phố càng hoảng loạn. Anh em ta bị địch bắt giam ở nhà lao Non Nước vùng dậy phá nhà lao, thoát ra ngoài. Sư đoàn 2 của Quân khu 5 do đồng chí Đại tá Nguyên Chơn - Anh hùng lực lượng vũ trang - làm Sư đoàn trưởng, sau khi giải phóng Tiên Phước, Phước Lâm, Tam Kỳ, tiến đánh phía nam Đà Nẵng. Ngày 29 tháng 3, bộ binh và xe tăng thuộc Quân đoàn 2 cùng lực lượng vũ trang của Quân khu 5 từ bốn hướng bắc, tây bắc, tây nam và nam nhanh chóng đánh thẳng vào thành phố, chiếm sân bay Đà Nẵng, các vị trí quan trọng khác, nhất là bán đảo Sơn Trà. Trong khi đó một trung đoàn độc lập của quân khu cũng đánh chiếm Non Nước và sân bay Nước Mặn. Một số cơ sở cách mạng và quân biệt động ta ở trong thành phố chiếm cầu Trịnh Minh Thế, cắm cờ ở toà thị chính, tự vệ và nhân dân dẫn đường cho bộ đội chiếm nhanh chóng các vị trí địch và đuổi bắt tàn quân địch. Trong vòng 32 giờ ta đã tiêu diệt và làm tan rã hơn 100.000 quân địch ở Đà Nẵng, chiếm được một căn cứ quân sự liên hợp mạnh, giải phóng Đà Nẵng, thành phố lớn thứ hai ở miền Nam. Với việc giải phóng Đà Nẵng, ta đã kết thúc quá trình tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ Quân đoàn 1, xoá bỏ Quân khu 1 của nguỵ, tạo điều kiện thúc đẩy quân nguỵ nhanh chóng đi tới chỗ sụp đổ hoàn toàn. Ngô Quang Trưởng, sau khi thoát chết tại cuộc họp ở căn cứ hải quân Sơn Trà, dùng máy bay lên thẳng bay ra tàu chiến chạy một mạch về Sài Gòn, vào nằm ở Tổng y viện cộng hoà.
(Chương 9 còn nữa)