“Đại Thắng Mùa Xuân” - Đại tướng Văn Tiến Dũng (Chương 15)

Ngày đăng: 04:56 03/05/2025 Lượt xem: 34

 “ĐẠI THẮNG MÙA XUÂN”
ĐẠI TƯỚNG VĂN TIẾN DŨNG
 
Chương 15 
GIỜ TÀN CỦA ĐỊCH

         Trong quá trình cuộc tổng tiến công chiến lược, Đảng ta theo dõi rất sát sự suy yếu của địch, phát hiện kịp thời những biểu hiện tan rã của chúng để tích cực tạo thời cơ và kịp thời tận dụng thời cơ. Đánh đúng thời cơ thì lực lượng nhỏ cũng thành sức mạnh lớn, lực lượng lớn sẽ thành sức mạnh lớn hơn rất nhiều. Thời cơ chính là lực lượng và là sức mạnh. So sánh lực lượng quân sự và tình thế chính trị chuyển biến đưa đến một bước ngoặt hoàn toàn bất lợi cho địch. Rốcpheolơ, Phó Tổng thống Mỹ, ngay từ ngày 2 tháng 4 đã phải thú nhận: "Đã quá muộn để có thể làm bất cứ việc gì nhằm lật ngược tình thế". Nhưng ngoan cố và xảo quyệt vốn là bản chất của đế quốc Mỹ và bọn tay sai. Bọn cuồng chiến Mỹ - nguỵ vẫn còn cố sức bày mưu lập kế hòng cứu vãn tình hình, ngăn chặn "một trận Oatéclô thứ 2" có thể chôn vùi uy danh của tên trùm sỏ đế quốc Mỹ. Thời gian càng trôi qua, chiến trường càng thu hẹp, quân lính, tướng tá địch thua trận chạy trốn về Sài Gòn càng làm cho bọn còn lại hoảng hốt, lo sợ. Pho và Kissinger vừa lâm ly, thống thiết với bè lũ Thiệu: "xin chia sẻ nỗi niềm không vui, tiếc hận cho những cuộc rút lui bắt buộc", vừa động viên hứa hẹn: "Mỹ sẽ đứng vững đằng sau Việt Nam cộng hoà"(!) Pho và Kissinger ra sức thúc ép quốc hội Mỹ tăng khối lượng viện trợ khẩn cấp lên 722 triệu đô la, yêu cầu được quyền sử dụng lực lượng quân sự gọi là để "di tản và bảo vệ di tản". Được quan thầy hà hơi cổ vũ, bè lũ Thiệu ra lệnh cố thủ phần đất còn lại kể từ Phan Rang trở vào. Đến ngày tận số, chúng còn nuôi ảo tưởng coi đế quốc Mỹ như ông chủ đáng tin cậy, sẵn sàng đưa tay ra dắt chúng bước khỏi vũng lầy. "Đại sứ" Mỹ Matin như người thầy thuốc ngồi bên con bệnh nặng là Thiệu, giữ Thiệu sống trong cái ảo tưởng đó. Nhưng quân nguỵ "chẳng có mấy thời gian để thực hiện kế hoạch tử thủ, cũng như ổn định vành đai phòng thủ cho một phần ba Nam Việt Nam còn lại". Đó là những lời bàn tán trong nội bộ chúng. Cuộc tổng tiến công chiến lược của ta phát triển rất nhanh về tốc độ, đang tiến tới đỉnh cao mới. Quân giải phóng Campuchia đã áp sát vào Phnôm Pênh, Lon Non bỏ cả Phnôm Pênh, chỉ kịp mang theo một tay nải chạy theo chủ Mỹ. Lầu năm góc mở cuộc hành quân "diều hâu" để rút lui. Giôn Đin, "Đại sứ" Mỹ ở Phnôm Pênh, cũng tranh lên một chiếc máy bay chạy sang Thái Lan, tay xách chiếc túi nhựa đựng lá cờ Mỹ vừa hạ ở Sứ quán. Bọn cố vấn Mỹ và bọn tay sai đầu sỏ tranh nhau chạy khỏi Phnôm Pênh. Ngày 17 tháng 4, Quân giải phóng tiến vào thành phố, bọn nguỵ Campuchia đầu hàng không điều kiện. Mỹ tỏ ra hoàn toàn không còn khả năng tham chiến trở lại và cứu bọn nguỵ tay sai. Không phải là do chúng thiếu lực lượng mà chính là do chúng thấy rằng, dù chúng có tung vào bao nhiêu vũ khí, đô la, hoặc liều lĩnh dùng lực lượng quân sự trở lại xâm lược Campuchia và miền Nam Việt Nam thì cũng không sao đảo ngược được tình thế mà chỉ chuốc lấy thất bại lớn hơn. Dư luận thế giới cho rằng cuộc rút lui của Mỹ ở Campuchia là cuộc diễn tập của chúng để chuẩn bị rút khỏi miền Nam Việt Nam. Giải phóng Phnôm Pênh, giải phóng Campuchia là chiến thắng vĩ đại, là một bản anh hùng ca của quân và dân Campuchia. Sự kiện đó cho thấy thế suy yếu thảm hại của đế quốc Mỹ ở bán đảo Đông Dương. Điều đó báo trước sự thất bại hoàn toàn của chúng và bọn tay sai ở miền Nam Việt Nam. Nguỵ quyền Sài Gòn nhìn vào tình hình Campuchia với nỗi lo sợ, hoang mang rõ rệt và mối nghi ngờ bọn chủ Mỹ. Trong khi đó, tình hình cách mạng Lào đang phát triển tốt đẹp càng cổ vũ cán bộ, chiến sĩ ta ngoài mặt trận. Bọn phản động cực hữu Lào bị nhân dân Lào ở nhiều nơi lên án và trừng trị. Quần chúng hướng về cách mạng, về Đảng nhân dân cách mạng Lào và Mặt trận Lào yêu nước, đòi hỏi thành lập một chính quyền dân chủ nhân dân. Mỹ - nguỵ trong bước đường cùng, bề ngoài tiếp tục gào thét tử thủ, bên trong dao động hốt hoảng. "Dinh Độc lập" của Thiệu trở thành một cứ điểm phòng thủ được tăng cường gấp ba lần so với trước đây, cứ 30 đến 40 mét lại có một lô cốt nhỏ, mũi súng liên thanh chĩa ra ngoài, ngay trước Dinh một máy bay lên thẳng túc trực sẵn sàng trên bãi cỏ, xe tăng bố trí dưới những rặng cây. Trần Văn Đôn, Bộ trưởng quốc phòng nguỵ, trong báo cáo ngày 18 tháng 4, sau khi đi kiểm tra một số khu vực phòng thủ, đã bi đát kêu lên: "quốc gia đang trong tình trạng nguy ngập thật sự. Sự sống còn chỉ có thể tính từng ngày, từng tuần, không thể tính từng tháng". Matin, "Đại sứ" Mỹ, ngày 19 tháng 4, cũng mật báo tình hình tuyệt vọng về Oasinhtơn: "Các đơn vị đối phương đang cùng lúc hội tụ về khu vực Sài Gòn từ mọi hướng với một lực lượng hậu bị to lớn hơn lực lượng chính phủ (nguỵ quyền Sài Gòn) rất nhiều, có khả năng bao vây thành phố và cô lập thành phố này trong vòng một hay hai tuần nữa. Mặc dù phía chính phủ (?) có thể tăng viện một hoặc hai mặt trận bằng cách rút lực lượng từ khu vực Cần Thơ hoặc Mỹ Tho trong châu thổ, nhưng việc này cũng không thể làm gì hơn là kéo dài thêm sự tồn tại của Sài Gòn khoảng một tuần, bởi vì quân đối phương hầu như ngay tức khắc sẽ có khả năng loại trừ những lực lượng tăng cường này với lực lượng gấp bội của họ". Ở Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang, Mỹ từng chạy trước và chạy nhanh hơn nguỵ. Đến giờ phút đen tối này, quan thầy Mỹ lại càng nhanh chân phát huy "sở trường". Chính quyền Pho - Kissinger mang trong đầu óc biết bao nhiêu tham vọng nhưng không thể tính toán khác được, vì có liều lĩnh cũng không cứu vãn được mà còn chui đầu trở lại con đường hầm không lối thoát và thất bại sẽ càng lớn hơn. Ba mươi sáu chước, chước "chuồn" là hơn. Ngày 18 tháng 4, chính quyền Pho - Kissinger ra lệnh di tản gấp bọn Mỹ ở Sài Gòn và cử Đin Brao phụ trách lực lượng đặc nhiệm dưới quyền chỉ đạo của Pho - Kissinger để điều khiển di tản. Một lực lượng lớn không quân, hải quân Mỹ gồm 35 tàu chiến, có bốn chiếc tàu sân bay, chiếm gần một phần ba tổng số loại đó của Mỹ, và hàng trăm máy bay các loại hoạt động nhộn nhịp trong một cuộc hành quân rút chạy hốt hoảng bắt đầu từ ngày 21-tháng 4. Trong cơn lốc kinh hoàng của cuộc di tản mà ngày cuối cùng được mệnh danh là cuộc hành quân "người liều mạng", máy bay lên thẳng Mỹ nhào lộn rối rít trên bầu trời Sài Gòn, đỗ xuống sân thượng sứ quán Mỹ và một số sân thượng khác trong thành phố để bốc đi những người Mỹ đang chen chúc chờ trên nóc nhà. Binh sĩ nguỵ tuyệt vọng trước cảnh Mỹ tháo chạy. Không còn những cuộc hành quân diễu võ giương oai để "tìm diệt", chỉ còn cuộc hành quân "liều mạng" tháo chạy lịch sử của đế quốc Mỹ. Trước khi cao chạy xa bay, Mỹ còn gây ra cho nhân dân ta biết bao thảm cảnh đầy máu và nước mắt. Chúng bắt cóc hàng nghìn trẻ em đưa về Mỹ và nước ngoài, với mục đích trước mắt nhằm gây xúc động dư luận, xin thêm viện trợ cho bọn nguỵ Sài Gòn, về lâu dài định làm cho các trẻ em này quên Tổ quốc, chống lại tổ quốc sau này. Những linh hồn bé bỏng, nạn nhân trò bịp lớn của Mỹ - nguỵ, đã phải rời gia đình và Tổ quốc trong tiếng gào thét thảm thiết. Hàng trăm em đã chết khi một máy bay vừa rời sân bay bị hỏng đâm nhào xuống đất. Sự tàn bạo của đế quốc Mỹ chỉ làm chúng tôi ở chiến trường thêm căm phẫn và thêm quyết tâm đánh thắng nhanh nhất, gọn nhất. Chúng di tản, tháo chạy, nhưng lại dùng chiến tranh tâm lý lừa bịp, xuyên tạc, khủng bố để còn lừa hàng chục nghìn người gọi là "tị nạn" theo chúng. Đây là những tội ác vô cùng thâm độc, rạch sâu vết thương phân ly trong biết bao gia đình. Cuộc di tản do Mỹ chủ trương nhằm mục đích: tuyên truyền rằng nhân dân không theo cách mạng, chúng tận dụng "chất xám" của một số trí thức và nhân viên kỹ thuật, sử dụng những người làm việc cho chúng vào âm mưu đen tối sau này. Đáng thương cho những người bị lừa bịp và căm ghét thay những kẻ cố tình theo Mỹ quên hết mọi đạo lý của người Việt Nam, quên mất Tổ quốc của mình. Báo Tiền tuyến của quân đội nguỵ nêu đầu đề suốt tám cột: "Cộng hoà Việt Nam không bao giờ đầu hàng cộng sản". Nhưng Uâyen ngày 21 tháng 4 đã than thở: "Tình hình quân sự là tuyệt vọng". Và trong một bài diễn văn ở trường đại học Niu Oliân ngày 23 tháng 4, Pho đã ngậm ngùi nói: "Chiến tranh đã kết thúc đối với người Mỹ, không thể giúp đỡ người Việt Nam được nữa, họ phải đương đầu với bất cứ sốphận nào đang đợi họ". Nội bộ quan thầy bi đát, rối ren; nội bộ bọn tay sai ở Sài Gòn cũng lâm vào cuộc khủng hoảng cực kỳ nghiêm trọng. Chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ thường thực hiện chính sách dùng nhiều ngựa. Trong tình hình bình thường, chính sách này có tác dụng kiềm chế lẫn nhau giữa bọn tay sai, vừa tạo ra bộ mặt dân chủ giả hiệu lừa mị quần chúng, vừa che đậy sự thống trị của Mỹ. Song, trong cơn nguy khốn, chính sách này lại sinh phản tác dụng. Các tập đoàn tay sai không chỉ hoạt động theo chiều hướng câu kết để kêu gào "chống cộng" ngăn chặn thất bại, mà còn biến thất bại thành một thứ vũ khí chống lại nhau, thanh toán lẫn nhau, tranh nhau làm "ngựa nòi" cho Mỹ, làm cho bộ máy nguỵ quyền càng suy yếu. Trước sự bất lực của Thiệu, Trần Thiện Khiêm vốn từ lâu mâu thuẫn với Thiệu, vận động "hội đồng tướng lĩnh" ra nghị quyết ép Thiệu từ chức. Tướng Nguyễn Cao Kỳ bị Thiệu gạt ra từ lâu cũng nhảy ra với Cao Văn Viên định làm đảo chính lật Thiệu. Mâu thuẫn trong bọn cầm đầu tác động đến tinh thần tướng tá, binh lính nguỵ vốn đang suy sụp, tan rã. Chúng bắn giết lẫn nhau, như tên Trung tướng nguỵ Nguyễn Văn Toàn, Tư lệnh Quân đoàn 3 nguỵ bắn chết tên Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu, Tư lệnh phó, và "không chấp nhận một mệnh lệnh nào khác ngoài mệnh lệnh di tản". Chúng tôi hết sức chú ý theo dõi sát tình hình địch, nhất là tin tức Mỹ di tản. Bộ Chính trị chỉ thị cho chúng tôi chuẩn bị khẩn trương, làm việc hết sức nhanh, đốc các cánh quân sửa soạn gấp, và nhắc chúng tôi chú ý sẵn sàng nắm thời cơ để hành động. Đúng lúc các đồng chí Lê Đức Thọ, Phạm Hùng và tôi vừa họp xong để rà soát lại lần cuối cùng công tác chuẩn bị cho Chiến dịch Hồ Chí Minh thì chiều 21 tháng 4, Nguyễn Văn Thiệu sụt sùi tuyên bố rút khỏi cái gọi là "Tổng thống Việt Nam cộng hoà". Thế là kết thúc cuộc đời chính trị xấu xa của một tên Việt gian hết sức tồi tệ làm tay sai cho Mỹ, đã gây biết bao tội ác đẫm máu đối với đồng bào ta trong cả nước. Hắn than thân trách phận và oán thầy, chửi tớ bằng một giọng lính tẩy. Hắn tiếc nhất là không có đủ viện trợ, không có sự can thiệp của Mỹ để kéo dài chiến tranh và thách Mỹ có giỏi thì vào một lần nữa để đánh "Việt cộng". Thiệu đổ là sự tan vỡ một ảo tưởng của Mỹ mưu toan dùng tập đoàn Thiệu làm công cụ tiếp tục chính sách "Việt Nam hoá chiến tranh". Thiệu đổ không phải vì năm Mèo, hắn cầm tinh con Chuột, cũng không phải do sét đánh đổ tảng đá nhọn như dao (núi Dao hay núi Đá Chồng ở Phan Rang) gần ngôi chùa lộng lẫy trên lưng chừng núi mà hắn đã dùng một tiểu đoàn công binh để xây dựng và một đại đội bảo an thường xuyên canh gác cho mẹ hắn ở đó "tu nhân tích đức". Hắn đổ vì chính sách xâm lược của đế quốc Mỹ hoàn toàn đi ngược lại ý chí độc lập, tự do của nhân dân ta và thất bại hoàn toàn. Mỹ đưa Trần Văn Hương, một tay sai đắc lực khác của Mỹ, lên thay Thiệu. Chỗ khác nhau giữa Thiệu so với Hương chỉ là giữa một tên Việt gian quân phiệt tàn bạo với một tên Việt gian dân sự rất nham hiểm. Cả hai đều ngoan cố, tiếp tục chiến tranh, chống lại Tổ quốc, chống lại nhân dân. Chính quyền Hương chỉ là một chính quyền Thiệu không có Thiệu. Ai cũng biết là Thiệu đã bị Mỹ vứt vào sọt rác nhưng phe Thiệu vẫn nắm quyền ở Sài Gòn, Thiệu vẫn còn ngồi ở Sài Gòn sau Hương để chỉ huy bọn đàn em. Bọn này động viên nhau: "Chuyện mười mấy sư đoàn Việt cộng bao vây Sài Gòn là con ngoáo ộp do phe đối lập bịa ra", hoặc "làm gì có chuyện mười mấy sư đoàn Việt cộng đã tới Sài Gòn, mà dù có đi nữa, không quân ta cũng đủ sức san bằng tất cả. Hiện ta có loại bom CBU đủ sức diệt một lúc cả một sư đoàn". Một tay chân của Thiệu huênh hoang ở quốc hội bù nhìn: "Nhất quyết không trao quyền cho một chính phủ đầu hàng". Cho đến ngày 26 tháng 4, khi Thiệu và gia đình hắn đem 16 tấn vàng bạc, đô la, của cải vội vã chạy sang Đài Loan, bọn chúng mới tỉnh giấc mơ rồi chúng lục tục chạy theo Thiệu. Nhiều tên ác ôn, tay sai Mỹ, nhiều kẻ có nợ máu với nhân dân thu vén của cải chạy, không quên mang theo những chứng chỉ, văn bằng, và huân chương do Mỹ cấp. Các chi nhánh ngân hàng ở Sài Gòn đông nghẹt người đòi rút tiền ra và trong 48 giờ đã rút tới 40 tỷ đồng, tức là khoảng 60 triệu đô la. Phần lớn các hãng hàng không quốc tế đã huỷ bỏ các chuyến bay đến Sài Gòn. Tổng đài điện thoại Sài Gòn bị ứ nghẹt, do số người gọi nhau hỏi han về tình hình quá nhiều. Một số máy bay địch cất cánh bỏ chạy sang Thái Lan hoặc người lái tự ý lái về quê trốn. Matin, "đại sứ" Mỹ, và những nhân vật ngoại giao phương Tây khác, hoạt động tấp nập ở hậu trường sân khấu chính trị Sài Gòn. Nhiều sức ép, kể cả của Mỹ, đòi Trần Văn Hương từ chức, thay bằng một người "dễ tiếp xúc hơn với Mặt trận dân tộc giải phóng". Hương chỉ muốn nhường ngôi cho người của phe Thiệu, và Hương cố bám ghế "tổng thống" để cho các đàn em đủ thời gian bán hộ chiếu chạy ra nước ngoài với giá rất cao và có thời giờ thu vén của cải. Chúng tôi biết rõ có một con bài mới ngấp nghé sau màn chờ ngày ra thay Hương. Nhiều hoạt động ngoại giao phức tạp rộ lên từ nhiều phía. Mỹ, nguỵ dùng mọi thủ đoạn, kể cả những thủ đoạn ngoại giao xảo quyệt, hòng chặn bước tiến quân của ta và hòng cứu chúng khỏi thất bại hoàn toàn.
(Chương 15 còn nữa)

 
tin tức liên quan