“Nơi lưu giữ hồn quê” – TG: Phạm Hồng Loan

Ngày đăng: 07:18 25/06/2025 Lượt xem: 51
NƠI LƯU GIỮ HỒN QUÊ

            Rời xa cái nắng như thiêu đốt của đô thị, tôi bước qua cây cầu cong cong uốn mình trên dòng mương xanh, ngẫm nghĩ đôi câu đối khắc hai bên cổng bảo tàng Đồng Quê ở thôn Bỉnh Di (xã Giao Thịnh, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định): “Giữ lấy tinh hoa từ thuở trước/ Để cho con cháu mãi ngàn sau”  rồi đắm mình trong không gian mát dịu tràn ngập cỏ cây hoa trái. Vồn vã đón tiếp chúng tôi bên chén nước vối ấm tình quê nhà, tôi lặng nhìn chị Ngô Thị Khiếu- chủ nhân của bảo tàng trong sự mến mộ. Điều gì ẩn chứa bên trong con người bình dị, với ánh mắt thân thương chiếu thẳng vào người đối diện kia có thể tạo dựng một bảo tàng mang sức vóc của cả vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng từ xa xưa, để năm 2014, Tổ chức Kỷ lục Việt Nam đã trao chứng nhận chị là người sáng lập Bảo tàng Đồng quê đầu tiên ở Việt Nam.

Nhà giáo Ngô Thị Khiếu- chủ nhân của bảo tàng Đồng quê
            Biết tôi là nhà giáo, chị cười: “Bây giờ nghỉ hưu rồi chị mới thấy nghề mình chọn là tuyệt vời. Em có thấy thế không?” Nghỉ hưu 8 năm rồi mà chất nhà giáo vẫn đậm nguyên trong chị. Đôi mắt như có hồn kia đã bao lần xoáy vào lỗi lầm của học trò những hôm bỏ buổi, những ngày trốn giờ, những trò “Nhất quỉ nhì ma” để rồi tự đứng cúi đầu, khoanh tay nhận lỗi, đã ánh lên những tia ấm áp, yêu thương trước sự hồn nhiên, vui tươi, đáng yêu của bao thế hệ học trò? Giọng nói truyền cảm, rõ ràng, dứt khoát kia đã hút hồn bao học trò vào bài giảng để ra trường bao năm rồi chúng vẫn nhớ đến cô như người mẹ hiền. Và giọng nói ấy giờ đây vẫn có sức cuốn hút đến lạ kì khi đưa tôi về với những tháng năm xa, miệt mài trên những trang giáo án, những giờ lên lớp. Nhưng nói đến Ngô Thị Khiếu, người ta chỉ nhớ đến “bà chủ” của bảo tàng Đồng Quê. Trong con người chị toát lên vẻ nhu mì, lam làm, chịu thương chịu khó của con người sinh ra, lớn lên, gắn bó với ruộng đồng. Câu chuyện bắt đầu từ một ngày đầu năm 1995, trên đường đi làm về, chị thấy cô hàng đồng nát đang ra sức đập mấy cái nồi đồng, giống như những cái nồi bà của chị hay dùng ngày xưa. Chị đến gần: “Tại sao chị đập những cái nồi này?” “Chúng tôi đập bẹp để mang đi bán” “Chị có mua được nhiều những thứ này không?” “Trước kia thì nhiều lắm. Cả sanh, chậu, đèn, nhưng bây giờ thì ít rồi”. “Vậy chị bán hết chỗ này cho tôi”. Đưa về nhà, cất vào gầm cầu thang, chị ngồi lặng đi. Cả một vùng kí ức xa xưa dồn dập như những thước phim quay chậm hiện về. Cha ông ta một thời lam lũ một nắng hai sương với những đồ dùng rất đỗi thân thương làm nên tất cả. Tại sao bây giờ ta chối bỏ để mọi điều lùi vào dĩ vãng? Như thế là có tội với cha ông, với lịch sử. Phải sưu tầm lại. Phải tìm cách níu kéo những hiện vật đó lại. Cuộc sống cha ông thấm trong từng đồ đồng nát này. Mỗi một vật dụng còn lại đều như ngầm chứa một cuộc đời, một số phận đẫm mồ hôi, thậm chí cả nước mắt, cả máu. Để thế hệ con cháu sau này hiểu được cuộc sống xa xưa của cha ông, thấy trân quí bát cơm khi hiểu rằng mỗi hạt cơm hôm nay đã phải trải qua bao mưa nắng, dần, sàng. Bắt đầu từ đó, ngoài giờ lên lớp, lo xong công việc gia đình, con cái, chị rong ruổi khắp nơi kiếm tìm những đồ xưa cũ, sau đó nhờ cô em dâu đi tìm mua hộ. Khắp các tỉnh vùng đồng bằng Bắc bộ, không nơi nào không in dấu chân chị. Nhiều khi mệt mỏi vì đường xa, chị phải thuê xe ôm. Và hình như chị có cơ duyên với việc này. Lần nào đi, dù xa, dù gần, dù ít, dù nhiều, chị cũng có cái để mang về. “Nghề chơi cũng lắm công phu”. Cụ Nguyễn Du bao giờ cũng đúng. Công phu của chị là có thể đi bất kể giờ giấc, thu gom bất kì thứ gì chị thấy quí giá như lời động viên của chồng: “Mình sinh ra ở quê.
            Những hiện vật của cha ông mình  ngày càng mai một đi. Mình phải tìm cách sưu tầm, gìn giữ lấy.”  Vậy nên với chị, thứ gì cũng quí. Từ cái bát chiết yêu, cái rổ, rá, dần, sàng đến cái đèn hoa kì leo lét đêm đông trong căn nhà lợp rạ lụp xụp, cái mâm gỗ sứt sẹo, mòn vẹt đi vì thời gian. Từ cái cày, cái bừa để “Trên đồng cạn, dưới đồng sâu. Chồng cày, vợ cấy…” trong chang chang nắng tháng sáu. Từ cái chum đựng mắm chượp đến cái máy gõ chữ, cái điện thoại đầu tiên khi ra đời. Từ những đồ dùng quí giá chỉ dùng trong gia đình tầng lớp địa chủ xưa đến những đồng bạc Đông Dương, đồng xu bỏ trong hũ, chôn kín dưới đất bao năm nay được đào lên, đã xỉn màu thời gian. Công phu của chị là vượt lên trên những lời bàn ra, tán vào, những nghi hoặc, những lời đàm tiếu của cả giới cổ vật: “Em mua những thứ rẻ tiền ấy làm gì?” Họ đâu hiểu rằng với đồng lương ba cọc ba đồng của một cô giáo, đồng lương ít ỏi của một người lính, đảm bảo đời sống cho cả gia đình nơi Thủ đô đã khó, làm sao có thể mua những đồ đắt tiền. Họ đâu hiểu rằng chỉ với những thứ “rẻ tiền" đó, chị đã làm nên một Bảo tàng Đồng Quê sừng sững giữa làng quê thanh bình.
            Hiểu được tâm tư, nguyện vọng của vợ chồng chị, lãnh đạo xã Giao Thịnh, UBND huyện Giao Thủy đã thống nhất giao cho chị mảnh đất rộng 6.000m cạnh trường mầm non của xã. Chị chỉ nộp tiền giải phóng mặt bằng cho bà con nông dân và hàng năm nộp tiền  theo thuế đất nông nghiệp. Từ sự khởi đầu tốt đẹp đó, chị lên kế hoạch xây dựng bảo tàng. Sáng 8/2/2011, lễ khởi công bắt đầu, chợt có hai đàn chim từ hai phía lao đến. Chúng chao liệng ríu rít như gửi đến chị lời chúc  nồng nhiệt. Ngày đổ mái tầng một, từ sáng sớm, mây đen  ùn ùn kéo đến. Chớp rạch ngang trời. Những người thợ lo lắng. “Anh em cứ khẩn trương lên. Chắc chắn mình làm xong trời mới mưa”. Chị vừa nói xong, chợt một đàn chuồn chuồn không biết  hiện ra từ đâu, dập dờn kín sân. Công việc xong xuôi, trời đổ mưa như trút kéo dài trong cả tuần. Không hiểu sao tất cả các công trình từ hạ móng đến cất nóc xong trời đều mưa. Ông Thanh thợ cả xây dựng công trình phải thốt lên: "Tại sao lần nào đổ mái, thời tiết cũng đều mát mẻ, sau đó có mưa". Chị cười: “Nhân hòa trước rồi đến thiên thời, địa lợi, em à”.
Bảo tàng Đồng quê tại thôn Bỉnh Di, xã Giao Thịnh, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định.
            Ngày 12/12/2012, ngôi nhà chính, đại diện cho kiểu nhà hiện đại ở các vùng quê của Bảo tàng chính thức hoàn thành với hơn 1.000 hiện vật của văn hóa đồng quê mà chị đã trải qua hành trình hơn 10.000 ki-lô-mét trong suốt 20 năm trời xuôi ngược Bắc Nam sưu tầm, nâng niu, giữ gìn. Tầng một, chị giành riêng cho Hoàng Kiền - người giáo viên đã lên duyên cùng chị trước khi lên đường đánh Mỹ, khi anh dạy học ở trường Cấp 2 Giao Tân. Mô hình Trường Sa được đặt giữa phòng với những chấm xanh giữa đại dương mênh mông là nơi anh gắn bó suốt 8 năm ròng chỉ huy Trung đoàn Công binh 83 xây dựng các công trình trên đảo. Là nơi anh đau đáu một niềm làm sao để đưa hàng ngàn tấn đất màu cho người lính đảo trồng rau xanh, đảm bảo sức khỏe. Là nơi anh tham gia đưa ra sáng kiến xây kè chắn sóng, chống xói lở và tích trữ nước ngọt cho đảo. Những kỷ vật được anh gom về đây chỉ giản đơn là chiếc mũ, vỏ đạn, viên đá trên đảo, cây phong ba , vỏ ốc, vỏ sò, mảnh san hô bình dị nhưng in đậm bao kỉ niệm của đời lính. Nó  là tài sản vô giá của anh, là chiếc cầu nối quá khứ, hiện tại và mãi mãi sau này.
            Tầng hai là toàn cảnh vùng đồng bằng Bắc Bộ xa xưa. Những vật dụng sinh hoạt của vùng châu thổ sông Hồng từ thuở khai thiên lập địa cứ lần lượt hiện ra trước mắt. Một chiếc bếp nhỏ với rổ, rá, dần, sàng, chổi, hũ gạo, hũ khoai khô cho ngày giáp hạt được tạo dựng nơi góc phòng. Ngỡ như ánh lửa hồng hắt bóng dáng hình mẹ ta nghiêng nghiêng trên vách bếp. Như thoang thoảng mùi khoai nướng ngọt lịm đầu lưỡi khi chiều đông. Như văng vẳng âm thanh “thậm thịch” tiếng chày giã gạo để mẹ ta “Mòn chân bên cối gạo canh khuya.”(Hồng Nguyên). Ngay cạnh gian bếp là nơi chưa đựng những công cụ lao động các nghề nông nghiệp ngư nghiệp, diêm nghiệp. .. Nghe như sóng biển mênh mang dội về trong từng tấm lưới kéo chài. Nghe như mùi mặn mòi của giọt mồ hôi cha “thánh thót như mưa ruộng cày…” ướt đẫm lưng mẹ trên chạt muối giữa  trưa hè oi bức.
          Bước lên tầng 3 người xem như dừng lại trước những thước phim quay chậm từng dòng chảy lịch sử qua các hiện vật được lưu giữ, giữ gìn, sắp xếp ngăn nắp, khoa học. Có lẽ dày công sưu tập nhất của người nữ chủ nhân là những dụng cụ như rìu, lao bằng đá có từ trước công nguyên, là các loại đồ gốm, đồ sứ, các bộ cồng chiêng Tây Nguyên đồng bộ cùng rất nhiều hiện vật khác. Xã hội ngày càng phát triển. Cuộc sống thay đổi. Lịch sử sang trang mới với những tủ kính lưu giữ bao đồ vật từ nghìn năm trước bên cạnh những giá lớn đầy ắp những chiếc mâm khắc chìm các hoa văn  của vị quan triều đình Huế, là những chiếc mâm đồng thau của các vị quan cấp xã, cấp huyện. Là 200 chiếc nồi đồng mà vị nữ chủ nhân dày công sưu tầm trên khắp mọi miền đất nước. Là 100 chiếc chậu thau đủ các kiểu hoa văn được dùng trong sinh hoạt của các bậc quyền quí khi xưa. Là 300 chiếc nồi đồng, sanh đồng trải qua bao đổi thay của lịch sử vẫn giữ nguyên sắc màu như thuở mới khai sinh. Chỉ vài bước chân, người xem được chiêm ngưỡng 100 chiếc đèn dầu đủ các chủng loại. Từ chiếc đèn dầu bắt đầu xuất hiện tại Việt Nam vào cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20, khi hãng dầu lửa Shell  của Mỹ mang dầu hỏa sang bán để thay thế  dầu lạc hay nến để thắp sáng mà người dân Việt Nam quen dùng. Từ chiếc đèn chai của người dân tự chế để bảo vệ ánh sáng trước gió đến những chiếc đèn bão xuất hiện trong chiến dịch Điện Biên Phủ giờ đây xếp hàng im lìm bên nhau như chứng nhân lịch sử cho những giai đoạn tạo ra ánh sáng, xóa đi những tăm tối của đêm đen. Nghễu nghện trên giá bên cạnh là những hũ tiền chinh các loại qua đủ các thời đại phong kiến Viêt Nam. Từ đồng tiền thời Nhà Ðinh phát hành tiền lần đầu tiên trong lịch sử (đồng Thái Bình Hưng Bảo đúc năm 970, mặt sau có chữ Ðinh.) Đồng tiền Thái Bình cũng như các tiền khác sau này các triều đại phong kiến cho đúc đều bằng đồng, hình tròn, lỗ vuông, biểu tượng cho trời và đất theo quan niệm của người phương Đông đến những  tờ giấy bạc Đông Dương được lưu hành đầu tiên ở Nam Kỳ năm 1881 chiểu theo sắc lệnh của Tổng thống Pháp sau hơn hai mươi năm thực dân Pháp nổ tiếng súng xâm lược nước ta tại bến cảng Đà Nẵng. Từ những đồng tiền bạc trắng hoa xòe hình đốm lửa như cánh hoa nở bung ở mặt thứ hai của đồng tiền đến các loại tiền Việt Nam từ khi  nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời qua các thời kì đổi tiền để ổn định đời sống kinh tế, chính trị của đất nước.
            Lên tầng 4, ta như lạc vào thế giới của sách. Hơn ba nghìn cuốn sách được chị tỉ mẩn sắp xếp theo chủ đề Lịch sử - Nông nghiệp –Phong tục tập quán - ẩm thự c- y học-văn học nghệ thuật. Gần hết cuộc đời, chị sưu tầm sách để dạy học, dạy con. Ăm ắp trên các giá là  những cuốn sách quí giá úa màu thời gian chị đã dày công thu thập khắp nơi, tìm đến những người lưu giữ sách cổ của Hà Nội để tìm mua. Cầm bộ sách Đại Nam nhất thống chí (bộ sách lớn nhất và quan trọng nhất về địa chí Việt Nam dưới thời phong kiến), bộ Thời sự năm 1968, Thời sự năm 1972, Nhật lệnh của Đại tướng Võ Nguyên Giáp năm 1963, bài diễn văn của Đại tướng trong lễ thành lập Đội Tuyên truyền Việt Nam giải phóng quân  trên tay, nghe như  những dòng chảy của lịch sử dội về trên từng trang, từng trang.
        Bao quanh ngôi nhà chính là các loại nhà của các tầng lớp địa chủ, trung nông, bần nông, nhà gác tường thời kỳ sau hoà bình, chị tìm kiếm mua và có cái được tặng, đưa về lắp dựng nguyên bản như nó vốn có. Tôi đứng lặng trước căn nhà bần nông, đưa tay lên mái rạ thấp lè tè thấy màu xanh rêu phủ kín. Mái nhà này tồn tại bao nhiều năm mới có được những lớp rêu phong cổ kính này? Bao nhiêu gió táp, mưa sa, bao nắng hè đỏ lửa, bao đợt gió mùa đông bắc với cái rét cắt thịt da nhưng nó vẫn thi gan cùng tuế nguyệt. Phía trước căn nhà là mảnh vườn nhỏ rau lên xanh tốt cho những bữa cơm đạm bạc trong căn bếp bé xíu góc vườn. Thoáng đâu đây khói bếp vương trên mái rạ. Nhưng dưới thời phong kiến xưa,có bao nếp nhà được gọi là nhà nhưng còn bao nếp nhà mà không phải là nhà trong đó là kiếp sống cơ cực, lầm than như căn nhà của chị Dậu trong tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố:“…Những khe hở ở cạnh cửa và những lỗ thủng ở chân phên lại cùng ra ý phô sòng, như muốn khai rằng: ngoài chiếc giường tre gẫy giát, kê giáp bức bụa, trong này có chum mẻ, vại hàn, chen nhau đứng bên cạnh đống đất hang chuột…” với bữa ăn của lũ trẻ: “… hai đứa xúm lại, lê la ngồi phệt dưới đất, mỗi đứa nhón lấy mỗi củ, không kịp bóc vỏ, chúng nó vừa thổi phù phù vừa cắn ngấu nghiến... Trừ ra khi gặp củ nào "hà nhậy", đắng quá không thể nuốt được, chúng nó mới chịu nhổ đi, và khi bị củ nào nhiều sơ, dai quá không thể nhai được, chúng nó mới chịu nhả bã…” Kế bên, chỉ cách vài bước chân là nhà của tầng lớp trung nông. Cao ráo. Sạch sẽ, sáng sủa hơn vì mỗi giai cấp có cuộc sống khác. Vẫn mái rạ, tường  vách đất, phía trước là vườn rau, cây cau, lu sành hứng nước mưa. Đối diện với khu nhà  của tầng lớp trung nông là nhà địa chủ. Đẹp hơn, rộng rãi hơn với nhà ngói, gỗ lim. Đồ dùng quí giá mà tầng lớp bần nông cả đời không dám mơ dù là được sờ vào: sập gụ, tủ chè khảm trai...Những đồ dùng đó được chuyển hóa từ đồng tiền của chị Dậu và của biết bao người dân cơ cực khác khi phải bán con, bán chó, bán đi cả những thứ quí giá nhất của đời mình để nộp tô với chính sách  sưu cao, thuế nặng đánh vào đầu người dân, kể cả những người đã chết. Đứng trước ngôi nhà địa chủ, ta nghe  tiếng nói xoe xóe như xé vải của mụ vợ Nghị Quế  vẫn vảng vất đâu đây: “…. Này bà bảo cho mà biết: mày ăn cơm chó nhà bà cũng chưa đáng đâu. Con chó nhà bà còn được mấy chục, con người như mày, bà chỉ mua có một đồng đấy thôi.”( Tắt đèn- Ngô Tất Tố.)
Những vật dụng sinh hoạt thường nhật của bà con nơi thôn quê Việt.
            Đến Bảo tàng Đồng Quê, ta về với trọn vẹn nền văn minh lúa nước trong làng quê thu nhỏ với  vườn cây, ao cá, ruộng đồng với những công việc bình dị hàng ngày của người nông dân. Trên ruộng cạn, người thiếu nữ đang mò cua, bắt ốc với chiếc giỏ xinh như chiếc giỏ xưa của cô Tấm. Dưới đồng sâu,bác nông dân cắm cúi “Con trâu đi trước, cái cày theo sau” chuẩn bị cho mùa vàng trĩu hạt. Trên bờ ruộng, chú bé vắt vẻo trên lưng trâu trong véo von tiếng sáo trúc. Xa xa, vườn cây rì rào trong nắng với đủ các loại cây. Này đây luống ngô bắp mẩy hạt đều tăm tắp rũ cờ chờ bàn tay người bẻ. Này đây những khóm đậu tương tròn căng hạt mẩy bên cạnh những vồng  khoai xanh um. Tất cả như đang sẵn sàng chờ người nữ chủ nhân thu hoạch để chế biến những món ăn dân dã cây nhà lá vườn. Nghe đâu đây tiếng cu gù giữa vườn trưa mênh mông, tiếng cá quẫy nước tũng tẵng, tiếng gà con liếp chiếp gọi mẹ. Thoáng đâu đây chú chim bói cá sặc sỡ đậu trên  vó bè, lia mắt xuống mặt ao. Vút như một mũi tên, chú lao xuống, chỉ trong chớp mát, một con cá đã nằm ngang trong mỏ để rồi xoải cánh bay đi. Yên ả. Thanh bình đến lạ.
        Tiếp xúc càng lâu, càng khám phá ra những nét thú vị ở chị. Có thể nói chị thuần nông đến từng suy nghĩ, từng lời ăn, tiếng nói. Chị quan niệm: Đừng bao giờ đánh mất nét chân quê. Chính cái nét chân quê mới là điểm riêng của người Việt Nam. Trong cái không gian mở nơi đồng quê, chị xác định đã trồng cấy, dù bất cứ loại cây gì cũng phải cấy giống thuần. Chị xuống Hải Hậu tìm đến nơi trồng lúa tám xoan có tiếng, lặn lội vào Quảng Trị, lên Lào Cai, sang Lào tìm lại giống ngô quí, mang về. Có nguyên liệu rồi, chị bắt tay vào chế biến. Quên đi dòng mồ hôi ướt đầm lưng áo, chị  thoăn thoắt vớt từng tấm bánh ra khỏi miệng nồi bưng vải đang sùng sục sôi, chuyển cho người bên cạnh gỡ ra, trải rộng lên tấm phên nứa rồi đem ra phơi. Dưới bóng râm, hai người phụ nữ tỉ mẩn ngồi thái nhỏ những tấm bánh đã se mặt, bỏ vào nia, mang ra nắng.Thấy tôi ngạc nhiên, chị cười: “Đây là những công đoạn làm miến dong. Tất cả những thứ ở đây chị đều làm thủ công với những nguyên liệu thuần nông mình tự trồng. Đảm bảo ngon, chất lượng. Em biết không, mỗi ngày ở đây đón rất nhiều  khách nơi xa đến. Nếu ai có nhu cầu, nhân viên sẽ làm và bán cho họ. Cầm tấm bánh gai, nếu biết công đoạn làm bánh, chắc chắn họ sẽ trả thêm gấp đôi. Bởi làm ra tấm bánh, việc đầu tiên không phải là gạo ra sao, nhân thế nào mà phải đi khắp các huyện mua lá chuối khô, tiếp tục rửa sạch, phơi khô. Quê chồng chị xưa kia có rượu Bỉnh Di nổi tiếng, nhưng bây giờ thương hiệu ấy cũng mai một đi rồi bởi hầu như người ta bỏ cách nấu rượu truyền thống, làm theo hướng ăn xổi. Trong thời gian học đại học, chị có học Sinh vật và bây giờ tìm hiểu trong sách vở nên chị nắm rõ quá trình lên men. Chị mò mẫm xin được công thức men của hai huyện Xuân Trường, Giao Thủy rồi sáp nhập hai loại đó vào, tạo ra loại men riêng của Đồng Quê. Vậy nên rượu của Đồng Quê bao giờ cũng có vị riêng, không lẫn vào đâu được. Còn quá trình làm tương, làm mắm tôm, nước mắm cũng gian nan, em ạ. Muốn làm được những sản phẩm ngon phải chú trọng nguyên liệu sạch, kĩ thuật chế biến và dụng cụ. Việc đầu tiên là phải chọn những cái chum già. Nếu dùng chum non người ta dùng men quét lên thì nguyên liệu sẽ bị mốc. Cái chum này chị phải đặt mua tại Hương Canh 1,2-1,5 triệu một cái, trong khi đó những loại như thế này ở đây chỉ 500-800 nghìn đồng. Để làm nước mắm, khi mua cá về, chị rửa qua nước muối, nhặt rác rồi rửa tiếp bằng rượu nhẹ (rượu lấy lại sau khi đã chưng cất thu rượu đủ độ). Tất nhiên khi làm ra nước mắm sẽ hao hụt đi một phần đạm nhưng không sao cả. Mình làm để mình và cho con cháu sử dụng cơ mà.”  Đến với Bảo tàng Đồng Quê, ngoài việc chiêm ngưỡng, suy ngẫm, ta còn được trải nghiệm công việc nhà nông với đầy đủ các công việc trồng, cấy, giã gạo, bắt cá và thưởng thức  các món ăn dân dã. Đó là ý tưởng tuyệt vời của người phụ nữ đảm đang, vén khéo.
        Từ xưa đến nay, người ta đến với bảo tàng là đến với nơi trưng bày, lưu giữ tài liệu, hiện vật liên quan đến một hay nhiều lĩnh vực như lịch sử, văn hóa của dân tộc hay một giai đoạn lịch sử nào đó. Khi thành lập một bảo tàng, người ta xây dựng lên rồi tìm kiếm các hiện vật, đôi khi có hiện vật phải mô phỏng, đưa về chỉ để cho người người đến xem. Và như vậy hiện vật chỉ là hiện vật. Nhưng Bảo tàng Đồng Quê lại đi ngược lại qui trình đó, theo đúng hướng của những bảo tàng trên thế giới đã làm. Khi hiện vật đã có nhiều đến mức chất đầy ở gầm cầu thang, ở  tầng bốn ngôi nhà trên Hà Nội,hai gian nhà ở quê, bảo tàng mới ra đời. “Muốn làm bảo tàng, phải hiểu hiện vật, em à. Không hiểu hiện vật, mà phải là hiện vật gốc, không thể làm được. Bởi khi làm bảo tàng rồi, mình phải nghĩ cách làm sao cho nó bền vững mãi mãi, trong việc nó tự nuôi với đội ngũ nhân viên vừa bảo vệ, vừa chăm sóc cây trồng, trong việc càng ngày càng thu thập thêm và giữ gìn hiện vật.” 
          Dường như sứ mệnh đã trao cho vợ chồng chị công việc mà phải có sự đam mê, nhiệt huyết với khát khao cháy bỏng thì mới làm được. Không thể không kể đến người chồng lặng thầm đằng sau, động viên, giúp đỡ để chị có thêm động lực là Hoàng Kiền-Thiếu tướng, Anh hùng Lực lượng vũ trang Quân đội nhân dân Việt Nam, nguyên Tư lệnh Binh chủng Công binh, là một trong những tác giả tham gia Công trình phòng thủ Trường Sa được Chủ tịch nước Việt Nam trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 2017. Bên cạnh đó là sự ủng hộ nhiệt tình của chính quyền địa phương, anh chị em trong gia đình, bạn bè. Nhiều người mến mộ việc làm của anh chị đã gửi tặng nhiều hiện vật quí giá. Nơi đây đã thành điểm đến của rất nhiều du khách, mỗi năm đến mấy chục nghìn người, là nơi để các em học sinh đến để  hiểu được cuộc sống xa xưa của cha ông, để trải nghiệm công việc nhà nông. Đặc biệt, bảo tàng thường xuyên đón nhiều đoàn du khách nước ngoài. Có một du khách Pháp nói: “ Hãy về Bảo tàng Đồng Quê. Tôi đã đi nhiều bảo tàng trên thế giới nhưng về đây, tôi thực sự thích thú”. Có hai người khách đều là tiến sĩ ở Pháp về, một người là Việt kiều làm ở bảo tàng Dân tộc học ở Pháp trước khi về bày tỏ: “Bảo tàng của ông bà quả là tuyệt vời. Tôi muốn mời ông bà sang Pháp và lo chỗ ăn, chỗ ở và đưa đi thăm quan khắp các bảo tàng nước Pháp. Khi nào sắp xếp được công việc, xin  ông bà báo cho tôi. Tôi sẽ gửi giấy mời qua Đại sứ quán. Tôi sẽ trực tiếp lái xe đưa ông bà đi thăm các bảo tàng ở Pháp”. Nhà văn hóa, Giáo sư Vũ Khiêu đã tặng Bảo tàng câu đối mà chị trân trọng đắp chữ nổi ngoài cổng. Đó cũng chính là ước nguyện của Ngô Thị Khiếu, người đã bằng cả cái tâm –tài – đức dày công sưu tầm, giữ gìn tinh hoa cuộc sống của cha ông.
 
Phạm Hồng Loan
Hội viên Hội VHNT Trường Sơn
 

 

tin tức liên quan