GỢI NHỚ 80 NĂM CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
VÀ NGÀY QUỐC KHÁNH 2 THÁNG 9.
Bùi Công Định
Quê tôi cái làng quê nhỏ, bãi cát trải dài giáp biển đông, dãy núi Xương Rồng dăng dăng chân trời phía tây, đường cái quan chạy dọc, lại có đường rẽ lên miền Thượng.
Nơi đó là ngã ba Thạch Trụ.
Dòng sông Thoa lững lờ trôi dọc, cánh đồng bát ngát nhấp nhô đến núi Vàng, núi Cửa.
Ông ngoại họ Huỳnh nói: “Đất này hiểm, có mộ ông Lớn, dinh ông Cần (1)(2). Làm ăn thì được, tuy ở không yên…”
Ông đoán không sai. Năm ấy, quân Đồng minh và Nhật đánh nhau, ngã ba Thạch Trụ lúc nào cũng có lính Nhật lê gươm dài sát đất, vác súng đi tuần. Trên trời, tàu bay Mỹ, tàu bay Nhật quần nhau như chim ác là, chim cắt. Trẻ con, bà già chui vào gầm bàn nhà thờ họ trốn, chỉ còn mấy anh nông dân chống cuốc lên dốc cao, đứng xem reo hò. Cả tuần, ngày nào có nắng lên là có đánh nhau trên trời.
Cha nói: “Kỳ này ông xã Thiệt, thiệt dữ quá. Ba chiếc tàu bay rơi trúng ngay dải ruộng rộc dọc sông. Giàu quá, mấy trăm mẫu, hễ tàu nào rụng là vô ruộng của ổng, cát bùn đùn lên thành gò…May quá, nhà mình ruộng ít, không bị đám nào”.
Thế mới biết ông xã Thiệt nhiều ruộng đến mức nào.
Tết năm ấy, các đoàn hát “Sắc bùa” đi từng nhà, vào các nhà khá, nhà giàu để chúc thọ, bị bác Cả Nhựơng lý trưởng cấm. Bác nói: “Giặc giã đầy trời, tụ tập đông đảo, lỡ chuyện gì thì khó”. Hoa vạn thọ sau Tết
đã tàn, anh Bùi Công Thảng con bác Cả đi ngoài tỉnh về, cho biết: “Nhựt, Pháp đánh nhau. Lính Pháp bị Nhật bắt giam trong nhà “Cẩm”. Trên Ba Tơ khởi nghĩa rồi. Lệnh ta chuẩn bị”.
Chả biết chuẩn bị là làm gì, chỉ thấy đàn ông nhà nào cũng phải rèn một thanh gươm dài thước rưỡi thợ mộc. Lò rèn phía chợ Mới ngày đêm đỏ lửa, ông thợ cả ngồi bên lò lửa phì phò, mấy thợ phụ quay búa luôn tay như múa, mồ hôi túa đầy vai, đầy ngực.
Sân nhà thờ họ Bùi cứ tối đến, thanh niên tập họp đứng thành hàng, tay cầm gậy tre dài quá đầu người lớn, tập tấn, tập đỡ, múa loang loáng, chân dậm rầm rầm. Anh đội trưởng tiếng the thé hô vang vang.
Chị Chín Ti Ti con út bác Cả đẹp nhất làng đứng xem, nói nhỏ: “Anh đó người Bình Định giỏi võ, mới rước về”.
Lệnh, không rõ lệnh từ đâu, mỗi nhà đều sắm một cái mõ bằng tre có dùi gỗ. Đó là ống tre già cắt hai đầu, giữa ống đục rãnh dọc, ống càng to đánh càng kêu vang. Cha làm mõ tre xong, anh em đem gõ, liền bị mắng: “Cái này trẻ con không được nghịch”.
Tháng Bảy, quân khởi nghĩa Ba Tơ tràn về xuôi chiếm các xã đường, cho người canh gác ngã ba Thạch Trụ, ga xe lửa. Quân Nhật được tin báo, hùng hổ đi trên chục xe cam nhông từ tỉnh lỵ Quảng Ngãi vào, bị quân khởi nghĩa phục kích, ném lựu đạn bằng đất sét sơn đen, súng nổ đùng đùng. Phía thôn Mỏ Cày hàng ngàn người tay cầm gươm xông lên vây giặc. Quân ta đông, tiếng mõ tre gõ vang trời nghe như sấm dậy, quân Nhật có tiếng gan nhất hạng, cuống cuồng leo lên xe chạy về Tư Nghĩa, bỏ lại một xe cam nhông bị quân ta đốt cháy.
Tiếng mõ dồn dập vang vang mỗi khi quân Nhật đến, tiếng mõ như sóng trào từ thôn xóm ven biển đến núi Xương Rồng, Chóp Vung, núi Vàng, núi Cửa. Huyện đường về tay cách mạng, cờ đỏ sao vàng rợp trời. Ngày nào cũng như hội, cha cầm gươm đứng trong hàng quân giữa sân đình An Thổ. Cờ đỏ sao vàng to được kéo lên cột cao phất phới bay trong gió.
Đội tự vệ chọn bốn cây tre to trong vườn của ông ngoại, chặt sát gốc, dựng chòi cao giữa xóm, trên có sàn ngồi được hai người. Anh Quân người có bằng “Pờ ri me” học cao nhất làng, lên chòi cùng một tự vệ đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập được “Trên” gửi về từ Hà Nội.
Tiếng vang vang qua loa thiếc, đàn ông mặc quần áo dài đầu đội khăn đóng đứng giữa sân, đàn bà đứng lấp ló trong nhà. Mọi người đều trịnh trọng lắng nghe.
Ông ngoại nói: “Tám mươi năm nô lệ, nay được Cụ Hồ Chí Minh giành độc lập”.
Tám mươi năm nô lệ! Sao mà dài thế.
Mừng Độc Lập khắp thôn xóm, nhà nhà treo cờ.
Anh Quản “Pơ ri me” người gầy như ống xe điếu, gọi đội Sắc bùa, cầm đờn cò, trống phách, đánh nhịp hát: “Sắc bùa là sắc bùa hè, cho mau tới Tết được nghe sắc bùa… Sắc bùa là sắc bùa ơi, cho mau tới Tết được chơi sắc bùa…” bị anh Bốn Thảng, nay là phó Mặt trận quát: “Hát gì những bài đó. Tập bài Diệt phát xít ngay”. Thế là phải kiếm đàn ghi ta, đàn măng đô lin và đồng ca: “Diệt phát xít, diệt bầy chó đê hèn của chúng. Tiến lên nền dân chủ cộng hòa. Việt Nam, Việt Nam… dưới bóng cờ đỏ ánh vàng sao…”.
Việt Nam!
Việt Nam!
Tiếng mõ râm ran dồn dập khắp thôn làng. Cờ đỏ sao vàng rực rỡ treo cao.
Từ ngày ấy, tiếng mõ tre khởi nghĩa đuổi giặc và sắc cờ đỏ thắm, ngôi sao vàng rực sáng cứ theo mãi trong tôi suốt năm tháng dài, suốt cả cuộc đời.
Chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp, cứ đến cuối tháng Tám các nhà được lệnh treo cờ đỏ sao vàng mới và ngày Hai tháng Chín đều có mít ting ở trước đình làng An Thổ. Học sinh đứng thành hàng phía trước, thanh niên đứng thành khối phía sau, cầm cờ đỏ sao vàng. Ông Bảy Cưu - Chủ tịch Mặt trận Liên Việt đọc diễn văn.
Ông Bảy Cưu giàu nhất thôn, ở nhà hai tầng là thầy thuốc nam đã từng vào Nam ra Bắc có bà vợ người Bắc, chít khăn mỏ quạ, luôn mặc váy. Ông chủ tịch người gầy mặc quân phục ca ki vàng, đi đứng nghiêm trang, ai cũng kính trọng.
Những năm năm mươi, giặc Pháp được Mỹ giúp nhiều tàu bay, từ Đà Nẵng bay vào Quảng Ngãi, ban ngày bay đầy trời thả bom. Lễ kỷ niệm ngày Độc Lập phải tổ chức vào ban đêm. Đuốc cháy bập bùng soi sáng rừng cờ đỏ sao vàng. Ông Bảy Cưu năm nào cũng tổ chức kỷ niệm cho đến năm 1953 thì Chủ tịch Mặt trận huyện Bùi Công Thảng về dự mít ting, đọc diễn văn rất hùng hồn, kêu gọi nhân dân góp công, góp của cho kháng chiến.
Năm 1954, Pháp thua ở Điện Biên Phủ, quân đội nhân dân Việt Nam bắt tù binh Pháp lên đến hơn vạn tên. Tại miền Trung, binh đoàn 100 của Pháp bị bộ đội ta đánh cho tan tác ở đèo An Khê. Ở Quảng Ngãi giặc Pháp đổ bộ từ biển lên thôn Hội An, An Thạch dùng ba xe tăng lội nước tiến chiếm ngã ba Thạch Trụ, mưu nối lên Kon Tum, Tây Nguyên. Bộ đội Trung đoàn 108 phục kích đuổi đánh, giặc Pháp bỏ chạy ra biển xuống tàu về Đà Nẵng. Một vùng nhà cửa bị đốt, lửa cháy ba ngày mới tàn.
Đúng như ông ngoại họ Huỳnh nói, chỗ này đất hiểm. Mỏ Cày Nhật chạy, Thạch Trụ Pháp thua, nhà cửa xóm làng tan hoang phải mất cả năm xây dựng lại.
Tháng bảy, năm một chín trăm năm tư, hòa bình trên toàn Đông Dương. Việt Nam bị chia cắt làm hai, dải đất vùng tự do Nam, Ngãi, Bình, Phú từ sông Thu Bồn vào đến đèo Cả giao cho quân Pháp. Bộ đội, cán bộ xuống Quy Nhơn lên tàu thủy Ba Lan, Liên Xô ra Bắc đem theo cả bầy voi, ngựa. Trung ương điện vào: đem voi, ngựa làm gì, phải cử thanh thiếu niên ra Bắc học tập để sau này có người về xây dựng quê hương. Thế là học sinh cấp Hai được gọi đi, nhưng đã gần hết hạn ngày tập kết nên chỉ được một số lên đường.
Cha mẹ, bà con, cô bác tiễn tôi lên tàu ra Bắc, hẹn hai năm gặp lại.
Ước mong bao năm được đến Thủ đô, được gặp Bác Hồ không có gì sung sướng bằng.
Cha ngậm ngùi bảo: “Ừ! Tháng bảy sang năm Tổng tuyển cử thống nhất nước nhà thì về”.
Quân Pháp đến, kéo theo cả đám phản động Ngô Đình Diệm. Chúng lập chính quyền, lên danh sách truy nã, bỏ tù những người kháng chiến cũ. Cha và các ông trong nông hội, mặt trận đem gươm, kiếm và cờ đỏ sao vàng dấu trên nóc nhà thờ họ. Một vùng làng mạc bên bờ sông Thoa bị quay rào dây thép gai thành ấp chiến lược.
Ông Bùi Công Thảng cùng xã đoàn thanh niên Lý Tùy và đội trưởng tự vệ Văn Tâm lên phía tây núi Chóp Vung, núi Xương Rồng xây căn cứ kháng chiến, lập chiến khu. Anh Quản theo lên sau, bỏ cả đàn, trống, sáo, nhị ở lại thôn.
Quê hương chìm trong máu lửa, Ngô Đình Diệm bắt dân treo cờ ba que nhưng hình ảnh cờ đỏ sao vàng vẫn giữ mãi trong lòng dân.
Đoàn học sinh miền Nam ra Bắc được ở thôn Dương Liễu, cạnh đường lên Sơn Tây, gần Hà Nội. Nhà trường khang trang. Thầy giỏi, trò ngoan ngày nào cũng vui như Tết.
Ước vọng lớn nhất được thấy Bác Hồ, được về Thủ đô thì ngày 30 tháng 8 năm 1955 thầy hiệu trưởng dẫn bốn mươi em học sinh xuất sắc về Hà Nội dự lễ Độc Lập.
Đường từ thị trấn Phùng xuống trung tâm Hà Nội như bừng sáng dưới nắng thu. Nhà cửa, ruộng đồng xanh tươi bát ngát. Phố xá rực rỡ sạch bóng như sân nhà thờ họ Bùi.
Đêm ngày Một tháng Chín được ngủ trong nhà bạn là học sinh Trường Trưng Vương trên gác tầng hai, phố Hàng Khay nhìn ra hồ Gươm. Nước hồ phẳng lặng, sóng gợn ánh sáng từ các dãy phố bên hồ. Tháp rùa có ngôi sao năm cánh trên đỉnh thắp sáng. Hà Nội lung linh như mơ, như mộng.
Cả đêm thức mong trời mau sáng.
Sáng ngày Hai tháng Chín, từ năm giờ cả đoàn đã ăn mặc chỉnh tề quần xanh áo trắng, tập hợp tại sân trường cùng học sinh Hà Nội tiến bước về quảng trường Ba Đình.
Ba Đình mênh mông, mưa thu lất phất mát rượi. Rừng người, hàng ngũ ngay thẳng đứng thành khối. Học sinh được đứng trước nhìn về lễ đài phía xa. Lễ đài ba khối, phần giữa cao, treo đèn lồng, dưới có năm cửa hình vòm, hai bên thấp hơn trải dài như hai cánh chim. Đại biểu đã ngồi kín. Trước lễ đài, đội quân bảo vệ cao đẹp, mặc quân phục ka ki vàng, đội mũ cối có lưới bọc, đứng nghiêm cách đều nhau như tượng.
Đúng bảy giờ sáng, những tia nắng ban mai bừng lên cũng là lúc Bác Hồ và các vị lãnh đạo bước ra đứng trong lễ đài.
Tiếng hô: “Nghiêm, chào cờ”.
Quốc kỳ to đỏ rực, ngôi sao vàng năm cánh được từ từ kéo lên. Đoàn quân nhạc cử quốc ca, cả rừng người hát theo.
“Đoàn quân Việt Nam đi chung lòng cứu quốc…”
Tiếng hát, tiếng nhạc hùng tráng dội vào không gian Thủ đô linh thiêng, vang mãi khắp đất trời Việt Nam, vang đến tận quê nhà nơi ngã ba Thạch Trụ, làng An Thổ thân yêu.
Bác Hồ đọc diễn văn. Cả Ba Đình yên lặng, nghe từng hơi thở.
Tiếng Người vang vang dội vào không gian Thủ đô, vọng đến cả nước, đến miền Nam, đến những chiến sĩ đồng bào đang sống dưới ách kìm kẹp của bè lũ phản động.
Nhìn lên lễ đài.
Bác Hồ!
Người đứng đó vẫy tay chào các cháu và đồng bào.
Ôi chao! những đứa trẻ miền Nam, sinh ra ở tận những xóm làng xa xôi của Tổ quốc được về đây nhìn thấy Người, nghe tiếng Người nói.
Suốt cả cuộc đời trong tim ta ghi nhớ mãi không bao giờ quên giây phút thiêng liêng này.
Bác Hồ trên lễ đài, nắng thu sáng rực quảng trường Ba Đình, Thủ đô Hà Nội.
Năm sau, đoàn học sinh miền Nam trường số 8 Dương Liễu được Trung ương cho ra nước ngoài học tập. Trước khi lên tàu Liên vận, cả đoàn chúng tôi đến trước quảng trường Ba Đình nhìn về lễ đài, nhìn lá cờ đỏ sao vàng đang bay, nhìn về Chủ tịch phủ nghiêm trang, xin hứa với Người học tập tốt để về phụng sự đất nước.
Mùa thu năm một nghìn chín trăm sáu chín (1969), đúng ngày Lễ Độc Lập của dân tộc Người ra đi về cõi vĩnh hằng.
Mưa thu nặng hạt, cùng hàng vạn nhân dân Hà Nội trên quảng trường Ba Đình, tôi đứng khóc dưới mưa.
Lá cờ đỏ ngôi sao vàng năm cánh rũ xuống như thấm đậm nước mắt của triệu người trên thế gian này.
Đau đớn đến tận cùng!
Bao thế hệ người Việt ngày đêm đau đáu trong lòng, chưa làm tròn sứ mệnh thiêng liêng của Tổ quốc. Giang sơn còn chia cắt Bắc, Nam.
Ba lô trên vai, súng trên tay và Di chúc của Người trong tim, tôi cùng đoàn quân vào Trường Sơn chiến đấu ở chiến trường miền Trung. Trước khi lên tàu từ Hà Nội nam tiến, đoàn chúng tôi về lại Ba Đình, đứng dưới lá cờ đỏ sao vàng xin thề thực hiện cho bằng được mong ước của Người: GIẢI PHÓNG MIỀN NAM THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC.
Ngày 30 Tư năm 1975, ngọn cờ cách mạng nửa đỏ nửa xanh được anh hùng Bùi Quang Thận cắm trên đỉnh dinh Độc Lập, đập tan chính quyền Sài gòn. Tổ quốc Việt Nam hoàn toàn thống nhất. Cờ đỏ sao vàng tung bay từ đỉnh Hà Giang đến mũi Cà Mau. Triệu trái tim cùng đập một nhịp.
Ôi! Biết bao vui sướng.
Đất trời Việt Nam bừng sáng.
Gian nan, mong ước cháy bỏng mấy chục năm chinh chiến đã thành.
Ngày 2 tháng 9 năm ấy tôi về ngã ba Thạch Trụ, cờ đỏ sao vàng rực rỡ treo từng nhà. Trên đỉnh núi Xương Rồng lá cờ đỏ sao vàng to nhất tung bay. Đoàn người đi dự Lễ Độc lập trên tay cầm cờ, nét mặt vô cùng hân hoan.
Bất chợt nghe loa phát điệu nhạc thân quen “Sắc bùa”, nhớ đến những nhà cách mạng ở xóm thôn ngày nào đã làm nên Khởi nghĩa Tháng Tám. Ông bí thư Bùi Công Thảng hy sinh trong chiến đấu trên chiến hào An Thổ, ông Chủ tịch Mặt trận Bảy Cưu trong tù thà chết không chào cờ địch, anh Nguyễn Quản hy sinh trên chiến khu Ba Động, chỉ còn Văn Tâm, Lý Tùy người làm chức to tỉnh Quảng Ngãi, người lo việc lớn trên Lâm Đồng.
Và câu ca:
“Sắc bùa là sắc bùa hè
Cho mau tới Tết để nghe sắc bùa
Sắc bùa là sắc bùa ơi
Cho mau tới Tết để chơi sắc bùa”.
Còn mãi.
Tết, đây là Tết Độc Lập ngày Hai tháng Chín.
Từ ngã ba Thạch Trụ này đến quảng trường Ba Đình Hà Nội bao xa?
Hôm nay, tám mươi năm sau Khởi nghĩa tôi lại về làng cũ. Xóm thôn đã là phố thị, nhà chen nhà mái ngói đỏ tươi. Đường rộng, xe nối nhau thành hàng nam, bắc chạy liên hồi. Đường lên miền tây xe, người cũng vun vút. Xa lộ lớn đang xây, ngả vào nam, ngả lên Thượng. Sông núi cứ như nở hoa. Dòng Thoa êm đềm chảy về biển Mỹ A, núi Xương Rồng xanh thẳm tận tầng mây.
Tám mươi năm trước, ông cha cầm mõ tre giành chính quyền để thoát nô lệ, đói nghèo.
Tám mươi năm sau, con cháu không còn lo đói, rách cùng nhau học, nắm trí thức nhân loại, phát triển làm giàu cho quê hương.
“Đất này lành”.
Nếu ông ngoại họ Huỳnh sống lại, sẽ nói vậy.
Ôi! Cách mạng tháng Tám.
Bùi Công Định
Hội viên Chi hội VHNT Trường Sơn, Đà Nẵng
----------------------------
-
Dinh ông Cần-Dinh thự của ông Nguyễn Th. chức Cần chánh đại học sĩ. Nhân vật thời Cần vương có nhiều tranh cãi. Công trình xây bằng đá ong đỏ tươi.
-
Mộ ông lớn- tương truyền ngài họ Bùi đỗ đạt cao, quan to. Vua giao việc lên cao nguyên Lâm viên lập Buôn Ma Thuột làm thủ phủ, bị sốt rét chết trẻ, mất nửa năm chuyển linh cửu bằng voi và thuyền về quê. Mộ to chiếm mười mẫu ruộng.