"Trường Sơn huyền thoại" - Chùm bài viết của Thiếu tướng Hoàng Kiền - (Phần III)
-----------------------------------------------------------
Mãi còn trong trái tim tôi
Bao miền ký ức một thời Trường Sơn
Trân trọng giới thiệu một số phần chính về Trường Sơn - Con đường huyền thoại.
PHẦN III
ĐẤU TRÍ VÀ ĐỌ SỨC TRONG CUỘC CHIẾN CHỐNG NGĂN CHẶN
CỦA BỘ ĐỘI TRƯỜNG SƠN
Để đối phó với Cuộc chiến ngăn chặn trên đường Trường Sơn vô cùng khốc liệt của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, Bộ đội Trường Sơn đã tiến hành Cuộc chiến chống ngăn chặn bằng sức mạnh tổng hợp của chiến tranh trên chiến trường Trường Sơn trong điều kiện mới, với yêu cầu mới.
CHỐNG NGĂN CHẶN BẰNG KHÔNG QUÂN CỦA ĐỊCH
1 . Bộ đội Phòng không đánh trả tích cực.
Để tăng cường bảo về tuyến hành lang, tháng 11 năm 1964, Bộ đã chi viện 2 tiểu đoàn pháo phòng không cho Đoàn 559 do Quân khu 4 chỉ huy bảo vệ cửa khẩu đường 12. Ngày 18 tháng 11 năm 1964, lực lượng pháo phòng không bảo vệ Bãi Dinh và Cha Lo đã bắn rơi máy bay Mỹ. Trong trận chiến đấu ác liệt này đã xuất hiện tấm gương chiến đấu dũng cảm của Anh hùng liệt sĩ Nguyễn Viết Xuân với lời hô "Nhằm thẳng quân thì mà bắn".
Tiểu đoàn phòng không 20 vào tuyến sớm nhất, ngày 20/7/1965. Tiểu đoàn đã bắn rơi chiếc máy bay Mỹ đầu tiên trên tuyến Trường Sơn.
Trong quá trình chiến đấu, lực lượng phòng không tiếp tục phát triển bao gồm các đại đội súng máy 12 ly 7 thuộc các đơn vị công binh, các tiểu đoàn phòng không trực thuộc các Binh trạm, các trung đoàn phòng không cơ động và phát triển lên đỉnh cao là Sư đoàn phòng không và nhiều trung đoàn phòng không độc lập trực thuộc Bộ Tư lệnh.
Bộ đội phòng không Trường Sơn được bố trí rộng khắp trên chiến trường Trường Sơn, lực lượng được hình thành và phát triển liên tục. Được trang bị các loại pháo phòng không: 37 ly, 57 ly, 100 ly, nhưng do đường cơ động rất xấu, vào đến Trường Sơn các loại pháo 57 ly và 100 ly bị hư hỏng khí tài, chưa tìm ra cách đánh ở địa hình rừng núi nên chưa phát huy được tác dụng. Riêng pháo 100 ly một số đơn vị không chiến đấu được, chỉ có pháo 37 ly là hiệu quả, pháo 57 ly từng bước phát huy hiệu quả. Các loại súng máy phòng không 12ly7, 14ly5 bắn rất hiệu quả. Bộ còn bổ sung một số đơn vị sung 20 ly gắn trên xe bọc thép để cơ động chiến đấu theo đội hình xe vận chuyển.
Nhiệm vụ tác chiến của lực lượng phòng không trên tuyến Trường Sơn được xác định là: Tiêu diệt các loại máy bay địch, bảo vệ vận chuyển thông suốt. Cụ thể là bảo vệ các trọng điểm giao thông thông suốt, bảo vệ đội hình xe vận chuyển an toàn, theo phương châm "quay nòng pháo theo bánh xe lăn ".
Các loại súng pháo phòng không được bố trí chủ yếu bảo vệ các khu vực trọng điểm, kết hợp cơ động phục kích bắn máy bay địch bảo vệ đội hình xe chạy trên đường. Bộ đội phòng không đã bằng nhiều biện pháp kéo, tời, tháo vác súng pháo lên các đỉnh núi cao để phục kích đón bắn máy bay địch.
Khó khăn nhất là từ mùa khô năm 1970 -1971, Mỹ dùng bom laser đánh các trận địa phòng không. Giai đoạn đầu gây ra cho bộ đội phòng không rất nhiều khó khăn và tổn thất. Chỉ trong 3 tháng đầu mùa khô năm 1971, địch đã đánh 1.104 trận vào các trận địa phòng không, trong đó có 55 lần sử dụng tia laser phá huỷ 81 khẩu pháo, làm 311 pháo thủ hy sinh và 262 bị thương. Một giai đoạn vô cùng khó khăn cho lực lượng phòng không Trường Sơn.
Qua nghiên cứu ta đã tìm ra cách đánh, đó là tập trung bắn máy bay bay vòng quanh chiếu laser làm cho bom do máy bay phản lực ném xuống sẽ rơi chệch mục tiêu.
Từ cuối năm 1970, đầu năm 1971, Mỹ dùng máy bay AC-130 cải tiến có thiết bị nhìn đêm bắn xe trên đường gây ra cho ta rất nhiều khó khăn và thiệt hại.
Trước tình hình đó, ngày 20-7-1971, Sư đoàn phòng không 377 được Bộ Quốc phòng điều động phối thuộc cho Bộ Tư lệnh Trường Sơn. Bộ cũng bổ sung vũ khí cho Bộ Tư lệnh Trường Sơn lên đến 728 khẩu pháo phòng không các loại. Lực lượng phòng không của Trường Sơn thật hùng hậu gồm: Sư đoàn 377 (có 6 trung đoàn), 12 Trung đoàn độc lập, 28 tiểu đoàn cao xạ của 25 Binh trạm Trường Sơn. Đã kết hợp tác chiến pháo cao xạ, tên lửa, kể cả không quân trên một số địa bàn trọng điểm, tiêu diệt máy bay tại chỗ, hất máy bay địch lên cao, ra xa bảo vệ đội hình xe tiến công an toàn. Trong chiến dịch Đường 9 - Nam Lào, bộ đội phòng không Trường Sơn đảm nhiệm tác chiến phòng không của chiến dịch. Bộ lấy lực lượng phòng không Trường Sơn làm chủ lực đánh máy bay địch.
Đối với máy bay AC.130, Mỹ đã thừa nhận có 10 chiếc bị trúng đạn pháo 37 ly, nhưng về được đến căn cứ. Lực lượng phòng không bao gồm cả pháo phòng không 37, 57 mm và tên lửa phối hợp đã bắn rơi 2 máy bay AC.130 vào cuối năm 1971 và đầu năm 1972. (1 chiếc rơi tại chỗ), đã loại trừ AC.130 từ đường 9 trở ra.
Với tinh thần "nhằm thẳng quân thù mà bắn" của Anh hùng liệt sỹ Nguyễn Viết Xuân, Bộ đội phòng không Trường Sơn đã chiến đấu mưu trí dũng cảm, sáng tạo, với quyết tâm, ý chí kiên cường "đánh giỏi, bắn trúng", "còn người, còn trận địa, còn đạn còn đánh". Đã bắn rơi 2455 máy bay Mỹ các loại, trong đó có 512 chiếc do công binh và bộ binh bắn rơi.
Bộ đội phòng không Trường Sơn giữ một vai trò rất quan trọng, đã hoàn thành xuất sắc cả ba nhiệm vụ: Bảo vệ đắc lực tuyến chi viện chiến lược, phối hợp với các binh chủng khác, quân và dân bạn và các chiến trường chống chiến tranh xâm lược, tham gia chiến đấu các chiến dịch trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mầu xuân năm 1975, đặc biệt là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Bộ đội phòng không Trường Sơn góp phần quan trọng đánh bại Cuộc chiến ngăn chặn bằng không quân của đối phương trên chiến trường Trường Sơn.
Với những chiến công đặc biệt xuất sắc, 12 đơn vị phòng không các cấp được phong tặng danh hiệu cao quý đơn vị Anh hùng LLVTND, trong đó có Trung đoàn 591 và Trung đoàn 218 thuộc Sư đoàn 377. Ba cá nhân được tuyên dương Anh hùng: Thượng sĩ Trần Xuân Sinh, Trung sĩ Đỗ Văn Chuyển, Thiếu tá liệt sĩ Lê Văn Lẫm.
2. Bộ đội Công binh, Thanh niên xung phong, Dân công hỏa tuyến: Là lực lượng đông đảo bảo đảm đường với tinh thần "xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước ".
- Trên mặt trận cầu đường, bộ đội công binh - lực lượng lớn nhất trong tổ chức binh chủng hợp thành là một lực lượng đa năng, đảm nhiệm nhiều nhiệm vụ: Làm đường mới, chống phá hoại, bảo đảm giao thông, chiến đấu bắn máy bay bay thấp, đánh địch mặt đất bảo vệ hành lang, cứu xe, cứu hàng.
- Nhiệm vụ chuyên mở đường bao gồm các trung đoàn, sư đoàn đảm nhiệm mang tính chiến lược, chiến dịch.
- Nhiệm vụ bảo đảm giao thông cho xe vào chiến trường. Trong điều kiện địch đánh phá ngăn chặn vô cùng ác liệt, rất nhiều biện pháp bảo đảm giao thông chống phá hoại đã được triển khai.
Lực lượng bao gồm Bộ đội, Thanh niên xung phong, Dân công hoả tuyến, có lực lượng Công nhân giao thông phối hợp. Các tiểu đoàn công binh ở các binh trạm chuyên môn làm nhiệm vụ bảo đảm giao thông chống phá hoại. Kết hợp các binh chủng cùng chiến đấu bảo vệ có hiệu quả giao thông, vận tải với phương châm "địch cứ đánh, ta cứ đi".
+ Nhiệm vụ liên tục mở đường mới để không ngừng hoàn thiện mạng đường.
Nhiệm vụ mở đường vòng tránh các trọng điểm ở những đoạn địa hình cho phép.
Làm ngầm ở những đoạn vượt sông, dùng đá rải lấp trên mặt sông cách mặt nước khoảng 0,8 - 1 mét cho xe chạy qua. Một khu vực làm ngầm chính một số bến dự bị để bảo đảm liên tục thông suốt.
Làm cầu cáp cho xe vượt khe, suối.
Dùng cầu 2 dây cáp, có thiết bị gá lắp vào tang trống bánh xe rồi tời kéo xe qua khe, suối sâu hẹp.
Bắc cầu phao ở những nơi cho phép. Ghép phà bảo đảm vượt sông kết hợp giữa máy đẩy và kéo tay, có bến chính và các bến dự bị.
Cùng rất nhiều biện pháp khác để bảo đảm thông đường.
+ Biện pháp bảo đảm giao thông, Chống phá hoại
- Công binh rải quân chốt trên các trọng điểm, đào hầm trú ẩn, lập các trạm điều chỉnh xe, lập các đài quan sát máy bay để báo động, quan sát ghi chép các loại bom rơi để có biện pháp khắc phục.
- Làm hầm cho xe tránh ẩn gọi là mang cá rải khắp các khu vực trọng điểm.
- Tổ chức khắc phục các loại bom mìn địch thả xuống, khó khăn nhất là bom từ trường và mìn vướng.
Phá bom từ trường:
Bằng các biện pháp thủ công để phá: Dùng mảnh tôn buộc dây, ẩn nấp trong công sự ở hai đầu kéo qua lại để phá, ốp bộc phá nổ, vần bom xuống vực. Khi bom thả xuống sông, dùng ca nô phóng nhanh cho bom nổ, gọi là "ca nô bất khuất", phà vẫn chở xe qua sông.
Bộ Tư lệnh công binh đã cử hai kỹ sư vào tháo đầu nổ bom, một đồng chí hi sinh. Tuy nhiên ta vẫn mang được đầu nổ ra Miền Bắc nghiên cứu, chế tạo ra máy phóng từ đặt trên xe bọc thép để cơ động phá bom từ trường trên các trọng điểm đánh phá của địch. Sau đó Mỹ chế tạo ra loại bom từ trường phải kích hoạt nhiều lần mới nổ, xe đi qua hai lần, ba lần mới nổ cũng gây cho ta nhiều khó khăn. Bộ đội Trường Sơn cũng tìm ra cách phá loại bom này. Cuối cùng bom từ trường đã bị vô hiệu hoá.
Phá mìn vướng: Kinh nghiệm cho biết thấy máy bay lao xuống mà không thấy bom nổ, chỉ nghe tiếng rào rào trong rừng, kèm theo hàng loạt tiếng rơi bịch bịch thì biết đó là mìn vướng CBU - 49.
Ban đầu địch đánh xuống cũng gây cho ta rất nhiều khó khăn và tổn thất sinh mạng. Có nơi bộ đội hy sinh cả tuần mà không lấy được xác ra, cứ vào là gặp dây vướng gây nổ bom.
Cuối cùng bộ đội Công binh cũng tìm ra cách phá.
Nơi nào không ảnh hưởng do cháy thì châm lửa đốt cho cháy lá, cháy dây vướng, vô hiệu hoá mìn.
Làm vật cản che chắn để phá mìn. Có thể tạo một bó cành cây đẩy đi, chiến sĩ công binh nằm phía sau quăng móc câu có dây nối rồi kéo cho mìn nổ. Hoặc "công sự di động", cắt dọc nửa thùng phuy 200 lít, bên ngoài buộc một lớp cỏ cây bảo vệ, trong có thanh gỗ ngang để nhấc đi theo. Chiến sỹ phá bom có mũ sắt, áo giáp nấp trong công sự dùng sào hoặc móc câu buộc dây ném kéo, hoặc ném bộc phá kích cho bom nổ.
Tất cả các loại bom mìn khác đều tìm cách khắc phục, vô hiệu hoá.
- Tổ chức lực lượng chốt ở các trong điểm, chọn thời điểm thích hợp lao lên san lấp hố bom, khắc phục hậu quả đánh phá thông đường cho xe qua.
- Công tác nghi binh: Để đối phó với các thủ đoạn đánh phá và các vũ khí của địch, bộ đội công binh đã có rất nhiều biện pháp nghi binh lừa địch. Điển hình có các biện pháp như sau:
Thu hồi cây nhiệt đới túm các ăng ten buộc lại. Tìm khu vực xa đường, xa các vị trí kho tàng, đóng quân của ta, dùng chiếc máy cát - séc đã thu tiếng động các loại rồi đem đến vị trí dự kiến, cắm các cây nhiệt đới, mở cát séc, thả ăng ten cây nhiệt đới ra thế là máy bay phản lực, B52 đến đánh phá liên tục.
Dùng nước tiểu của người và gia súc cho vào các lọ thuỷ tinh, thu các máy ngửi mùi làm tương tự như cây nhiệt đới cũng lừa máy bay địch đến đánh phá.
BẢO ĐẢM VƯỢT CỬA KHẨU
Có hai cửa khẩu chính vượt Trường Sơn sang Lào:
Theo đường 12: Tập trung bảo đảm thông đường qua các trọng điểm dọc theo đường 12.
Từ năm 1964, không quân Mỹ tập trung đánh phá khu vực cửa khẩu trên đường 12, tạo thành các trọng điểm vô cùng ác liệt như Bãi Dinh, Cha Lo, Đèo Mụ Dạ, Cổng Trời, Khe Ve, Đồi 37, La Trọng, gây tắc đường và tổn thất rất lớn cho ta. Đã có cuộc họp bàn hay chuyển sang phương pháp gùi thồ cũ. Đại tướng - Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã kết luận tiếp tục tìm biện pháp khắc phục cho phương thức vận tải cơ giới kết hợp với các phương thức gùi thồ khác.
Trên đường 12 qua Khe Ve
Đêm đêm rầm rập những đoàn xe
Đạn xới, bom cày đường tan nát
Ngược xuôi không ngớt vọng tiếng xe
Theo đường 20 Quyết Thắng:
Mỹ đã thả chất độc hoá học làm trơ trụi cây cối. Khi phát hiện ra, Không quân Mỹ đã tập trung đánh phá trên đường này tạo thành tập đoàn trọng điểm ATP. Nơi đây đã diễn ra sự đánh phá bằng bom đạn của không quân Mỹ ác liệt nhất trong lịch sử chiến tranh của nhân loại. Suốt ngày đêm không ngớt tiếng máy bay phản lực, pháo đài bay B52, đạn nổ, bom rung, đêm đêm không một giây nào ngớt ánh sáng pháo sáng. Mỗi ngày địch đánh 30 - 40 trận, có tuần lễ ném 50.000 quả bom xuống trọng điểm ATP và Trạ Ang. Riêng ngày 25/11/1968, địch đánh 52 trận có 51 lần chiếc B52 và 36 lần chiếc phản lực. Mỹ đã tập trung đánh phá tập đoàn trọng điểm ATP suốt 87 ngày đêm với 13 nghìn tấn bom đạn.
Các lực lượng bộ đội, thanh niên xung phong, công nhân giao thông đã kiên cường ngày đêm bám trụ trên con đường này để khắc phục hậu quả đánh phá của địch. Mặt đường trộn lẫn máu xương, nước mắt của những người chiến sĩ Trường Sơn.
Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên trực tiếp chỉ đạo, chỉ huy các lực lượng đối phó với sự đánh phá của địch bảo đảm chi viện cho chiến trường.
Trên hai con đường này địch tập trung đánh phá vô cùng ác liệt nhất là giai đoạn 1968 – 1972. Lực lượng Bộ đội, Thanh niên xung phong đã bám đường dũng cảm khắc phục hậu quả đánh phá của địch để thông đường. Sự hy sinh trên hai con đường vượt cửa khẩu này là rất lớn.
Đèo Phu La Nhích trắng dù
Bom rung mặt đất, đèn đu sáng trời
Cua chữ A đỏ một thời
Ngầm Ta Lê hứng bom rơi mịt mùng
Ngày, đêm lửa đạn không ngừng
Mỹ kia dốc sức điên khùng chặn ta
Bao nhiêu biện pháp mở ra
Tinh thần ý chí vượt qua kiên cường.
BẢO ĐẢM VƯỢT ĐƯỜNG SỐ 9
Đường số 9 chạy dọc nam vĩ tuyến 17, cắt ngang hai nước Việt Nam và Lào. Tất cả các con đường vào chiến trường đều phải đi qua đường 9. Để ngăn chặn sự chi viện trên tuyến vận chuyển chiến lược này, đế quốc Mỹ đã huy động lực lượng không quân tập trung đánh phá với quy mô và mức độ vô cùng ác liệt. Khu vực đường số 9 là một trong những khu vực trọng điểm ác liệt nhất. Văng Mu, Phù Kiều, Tha Mé, Thác Hài, Thà Khống xưa kia là rừng thẳm núi cao, mà trong những năm chiến tranh bom đạn địch đánh phá rừng núi tan hoang không còn ngọn cỏ cành cây.
Rừng tìm ngọn cỏ không ra
Bom cầy đạn xới đất xoa bột mầu
Công binh anh dũng tuyến đầu
Phá bom mở lối bắc cầu xe đi.
Trọng điểm Văng Mu trên đường 128 A địa hình vô cùng hiểm trở, một bên là núi cao dốc đứng, một bên là vực sâu liền kề con sông Nậm Cốc, đường độc đạo. Địch tập trung đánh phá vô cùng ác liệt, đủ các loại bom đạn, đánh suốt ngày đêm; đêm đêm pháo sáng thả khắp cả vùng không giây nào ngừng. Văng Mu được ví là "Cánh cửa thép Trường Sơn". Đại đội 2 thuộc Tiểu đoàn công binh 31 của Binh trạm 32 bảo đảm trọng điểm này. Cán bộ chiến sỹ tiểu đoàn đã dũng cảm bám trụ phá bom từ trường, bom mổ chậm, các loại mìn địch thả xuống, xông lên san lấp kịp thời để thông đường cho xe vận chuyển vượt qua trọng điểm. Nhiều đồng chí anh dũng hy sinh. Đại đội 2 đã được tuyên dương danh hiệu đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Đường 128 qua Văng Mu
Đêm đêm sáng trắng đèn dù
Đạn xới, bom cầy rừng tan nát
Đá hoá thành vôi, đất đỏ lừ.
Vách đứng vực sâu lượn vượt qua
Không lực Hoa Kỳ đánh xát trà
Mưu toan cắt chặn đường chi viện
"Cửa thép Trường Sơn" vẫn mở ra.
Công binh bám trụ quyết không rời
Chờ thời đợi lúc ngớt bom rơi
Xông lên tháo phá, san gạt lấp
Rầm rập xe lao chuyển đất trời.
Do địch tập trung đánh phá và địa hình quá hiểm trở nên Văng Mu cũng dễ bị tắc. Ta đã mở đường 128 B ở phía nam đường 128 A từ ngã ba Lùm Bùm nối vào đường 9 để phá thế độc đạo ở trọng điểm Văng Mu. Địch lại tập trung đánh phá tạo thành trọng điểm Phù Kiều, với chiều dài khoảng 5 km một bên là núi cao, một bên là vực thẳm. Bom đạn cầy xới nát nhầu, rừng cây bị cháy tan hoang chỉ còn lại lác đác gốc cụt, cành trơ trụi đen thui. Dù pháo sáng bám rải rác trên các cành cây trắng cả một vùng.
Dọc theo đường số 9 qua Bản Đông là Trọng điểm Thà Khống. Con sông Sê Băng Hiên cắt ngang đường 9, bộ đội công binh bảo đảm vượt sông bằng phà. Địa hình trống trải, máy bay địch tập trung đánh phá để ngăn chặn xe vận chuyển nên gây cho ta nhiều tổn thất. Bộ đội ta có câu thơ truyền miệng nói lên sự ác liệt của bến phà này....
Đường qua Thà Khống gian nguy
Đạn bom địch đánh xe đi kiên cường
Hướng ra mặt trận tiền phương
Con phà kết nối phi thường xe qua.
...
Nam đường 9 là các trọng điểm Tha Mé trên đường 35 và Thác Hài trên đường 23 địch tập trung đánh phá liên tục suốt ngày đêm.
Hàng loạt trọng điểm trên khắp địa bàn Trường Sơn địch cũng tập trung đánh phá vô cùng ác liệt. Các đơn vị công binh đều bám trụ khắc phục hậu quả đánh phá bảo đảm giao thông trong mọi tình huống.
Bộ đội Công binh các Binh trạm ở chiến trường Trường Sơn làm việc quanh năm cả hai mùa mưa nắng. Mùa khô rải quân trên đường chốt ở các trọng điểm để tháo gỡ bom mìn, khắc phục hậu quả đánh phá của địch thông đường cho xe đi. Mùa mưa tập trung mở đường mới, làm đường vòng tránh các trọng điểm; sản xuất các vật liệu dự trữ tại các trọng điểm phục vụ việc bảo đảm giao thông.
Từ năm 1971, chúng ta bắt đầu mở đường kín gọi là đường K. Mùa mưa toàn bộ lực lượng Công binh tập trung mở đường, ngoài ra còn huy động các lực lượng khác tăng cường để làm đường. Bộ đội Công binh làm việc quanh năm không lúc nào nghỉ, là lực lượng chịu đựng khó khăn gian khổ nhất trên Trường Sơn.
Bộ đội Công binh Trường Sơn với khẩu hiệu:
"Sống bám cầu, bám đường
Chết kiên cường dũng cảm"
Và với quyết tâm: "Máu có thể đổ nhưng đường không thể tắc", lực lượng công binh trên khắp mọi con đường đã luôn kiên cường dũng cảm bảo đảm cầu đường thông suốt cho xe vận chuyển chi viện cho chiến trường. Máu xương của các chiến sĩ Công binh đã đổ xuống thấm đẫm các cung đường bảo đảm chi viện sức người sức của cho tiền phương. Gần 9.000 cán bộ chiến sĩ công binh, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến, công nhân giao thông đã ngã xuống; hàng vạn người bị thương, bị nhiễm chất độc dioxin da cam đã nói lên tinh thần dũng cảm hy sinh và chiến đấu ác liệt đó.
Với những chiến công đặc biệt xuất sắc, 19 đơn vị công binh được tuyên dương danh hiệu cao quý AHLLVTND, trong đó có 9 trung đoàn gồm các Trung đoàn: 98, 10, 99, 35, 542, 4, 14, 531, 217. Có Sư đoàn 470. Có 13 cá nhân được tuyên dương danh hiệu AHLLVTND: Trung sĩ Hoàng Văn Nghiên, Chuẩn uý Vũ Tiến Đề, Thượng sĩ Nguyễn Văn Thân, Thượng sĩ Nguyễn Văn Thoát, Chuẩn uý Hoàng Hữu Thanh, Thiếu uý Nguyễn Bá Tòng, Thiếu uý Hoàng Quang Tính, Thượng sĩ Phạm Văn Cờ, Trung sĩ Nguyễn Việt Hồng, Liệt sĩ - Thượng Sĩ Nguyễn Thị Nhã, Trung sĩ Cầm Bá Trùng, Thiếu tá Nguyễn Văn Tửu, Liệt sĩ - Trung sĩ Nguyễn Thị Vân Liệu.
Lực lượng Thanh niên xung phong Trường Sơn có 14 đơn vị và 10 cá nhân được tuyên dương AHLLVTND.
Thiếu tướng Hoàng Kiền
( còn nữa )