"Sự kiện Gạc Ma" - Ký ức của Thiếu tướng Hoàng Kiền

Ngày đăng: 10:58 14/03/2021 Lượt xem: 441
SỰ KIỆN GẠC MA
 

Thiếu tướng Hoàng Kiền

KÝ ỨC CỦA NGƯỜI - MỘT THUỞ TRƯỜNG SƠN, MỘT THỜI BIỂN ĐẢO
 
         Hôm nay 14 tháng 3 ngày cách đây 33 năm Trung Quốc đã đưa quân xuống xâm phạm chủ quyền biển đảo của Việt Nam, đơn phương gây ra cuộc xung đột vũ trang trên biển rất tàn bạo. Xin viết mấy nét về sự kiện bi hùng này.

QUẦN ĐẢO TRƯỜNG SA CỦA VIỆT NAM 
       Quần đảo Trường Sa là một tập hợp thực thể địa lý được bao quanh bởi những vùng đánh cá trù phú và có tiềm năng dầu mỏ, khí đốt, băng cháy, tài nguyên khoáng sản thuộc Biển Đông. Nó có đường hàng hải quan trọng, khoảng non một nửa hàng hoá giao thương quốc tế đi qua đây. Biển Đông có vị trí quan trọng về quân sự với các nước trong khu vực và một số cường quốc.
       Quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam, đã được xác lập từ các triều đại phong kiến trước đây mà gần nhất là Nhà Nguyễn. Hiện nay đang có sự tranh chấp của năm nước, sáu bên là: Brunei, Malaysia, Philippines, Trung Quốc, Việt Nam và một bên là Đài Loan. Đài Loan và Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ quần đảo, nhưng khái niệm quần đảo Nam Sa trong nhận thức của họ là bao hàm toàn bộ các thực thể địa lý nằm bên trong phần phía nam của đường lưỡi bò chín khúc do Quốc dân đảng vẽ ra. Đối với Philippines, phạm vi tuyên bố chủ quyền của nước này bao trùm hầu hết quần đảo và được gọi là Nhóm đảo Kalayaan. Malaysia đòi hỏi một số thực thể ở phía nam của quần đảo. Brunei chỉ đưa ra yêu sách về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa mà trong vùng đó có vài thực thể thuộc Biển Đông.
       Cho đến năm 1954 chưa nước ngoài nào có mặt trên quần đảo Trường Sa, mà hoàn toàn do Việt Nam quản lý. Năm 1954 sau hiệp định Giơ ne vơ, Liên hiệp Pháp bàn giao việc quản lý quần đảo này cho Việt Nam. Khi ấy Việt Nam tạm thời chia cắt làm hai miền chờ tổng tuyển cử thống nhất đất nước vào tháng 7 năm 1956. Từ vĩ tuyến 17 trở vào do chính quyền Quốc gia Việt Nam quản lý, Bảo Đại làm Quốc trưởng, quần đảo Trường Sa nằm ở phía Nam vĩ tuyến 17 do đó tạm thời do chính quyền Quốc gia Việt Nam quản lý . Lúc này toàn bộ quần đảo Trường Sa chưa nước ngoài nào có mặt, hoàn toàn do Việt Nam quản lý.
       Tháng 10 năm 1955 Ngô Đình Diệm lật đổ Bảo Đại, lên nắm quyền tự xưng là tổng thống, đổi tên Quốc gia Việt Nam thành Việt Nam cộng hoà. Năm 1956, Đài Loan chiếm đảo Ba Bình. Đầu thập niên 1970, Philippines chiếm 7 đảo và một số bãi đá phía đông quần đảo. Như vậy chính quyền Việt Nam cộng hoà ( ngụy quyền ) đã để mất 8 hòn đảo nổi và một số bãi đá ( còn gọi là đảo chìm) vào tay Philippines và Đài Loan .
       Cho đến năm 1987 Trung Quốc chưa có mặt ở Trường Sa.
       Quần đảo Trường Sa nằm ở giữa Biển Đông trải trên một khu vực biển khá rộng, chiều ngang từ đông sang tây khoảng 170 hải lý (300 km), chiều dọc từ Bắc xuống nam khoảng 330 hải lý (611 km). Đảo nổi Trường Sa gần nhất cũng cách Cam Ranh 250 hải lý (463 km), đảo Tiên Nữ xa nhất về phía đông cách Cam Ranh 390 hải lý (700 km). Quần đảo bao gồm các đảo, các bãi cạn, bãi đá ngầm với khoảng 140 vị trí.
       Tổng số có 17 đảo nổi, Philippines Pin chiếm 7 đảo, Đài Loan chiếm 1 đảo lớn nhất . Việt Nam hiện quản lý 9 đảo, trong đó có 5 đảo giải phóng từ tay quân ngụy Sài Gòn, 4 đảo đóng mới.
       Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, Đại tướng - Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã chỉ thị cho Hải quân và Quân khu V phối hợp giải phóng quần đảo Trường Sa. Ngày 14/4/1975 ta đã giải phóng đảo Song Tử Tây, đến 29/4/1975 ta đã giải phóng và tiếp quản hoàn toàn 5 đảo do quân nguỵ Sài Gòn đóng giữ gồm: Song Tử Tây, Nam Yết, Sơn Ca, Sinh Tồn, Trường Sa. Còn 4 đảo nổi gồm: Trường Sa Đông, Sinh Tồn Đông, Phan Vinh, An Bang.
       Hải quân đã báo cáo lên Bộ Quốc phòng, đến năm 1978 Hải quân Việt Nam đóng giữ hết cả 4 đảo nổi này, nâng tổng số lên 9 đảo nổi.
       Từ năm 1976 đến năm 1984 Trung đoàn Công binh 83 được điều từ Quân khu 5 về trực thuộc Quân chủng Hải quân để xây dựng công trình chiến đấu trên quần đảo Trường Sa. Kế hoạch mang mật danh Z76 được triển khai, từ năm 1976 đến năm 1981 hoàn thành việc xây dựng hệ thống công trình phòng thủ trên 9 đảo nổi theo qui hoạch và kế hoạch của Bộ Tư lệnh Hải quân.
       Sau đó Trung đoàn 83 rút khỏi Trường Sa, để lại 1 tiểu đoàn Công binh trực thuộc Vùng 4 Hải quân tiếp tục tu bổ, xây dựng bổ sung.
       Các các bãi cạn (còn gọi là đảo chìm) . Từ năm 1977 đến năm 1984, thực hiện sự chỉ đạo của Bộ Tư lệnh Hải quân, Vùng 4 đã tổ chức lực lượng của Phòng Tham mưu, Lữ đoàn 146, Trung đoàn Công binh 83 hoàn thành kế hoạch thả 99 bia chủ quyền trên các đảo chìm thuộc quần đảo Trường Sa. Cho đến năm 1986 chúng ta thường xuyên kiểm tra quản lý đặt các mốc chủ quyền, chưa tổ chức đóng giữ đảo.
       Tháng 4/1986 Phó đô đốc Giáp Văn Cương - Tư lệnh Hải quân dẫn đầu đoàn cán bộ Hải quân đi kiểm tra, chỉ đạo các mặt toàn bộ quần đảo Trường Sa, Đại uý Kỹ sư Hoàng Kiền, Đại uý kỹ sư Đỗ Văn Thông - Trợ lý Phòng Công binh Hải quân đi cùng đoàn. Khi phát hiện nước ngoài có âm mưu xâm chiếm các đảo chìm của ta, đặt trộm các bia chủ quyền trong đó có đảo Thuyền Chài, Tư lệnh Giáp Văn Cương chỉ đạo các biện pháp đối phó.
       Tháng 11 năm 1986 nhà cao chân C3 đầu tiên do kỹ sư Đỗ Văn Thông và kỹ sư Hoàng Anh Dũng thiết kế được lắp dựng trên đảo chìm Thuyền Chài. Kết cấu nhà cột bê tông cốt thép, tận dụng cột điện gỗ thông cũ ở Cam Ranh của Mỹ cắt ra làm dầm và cột chống, sàn lát ghi nhôm, mái lợp vòm tôn. Thượng uý kỹ sư Hoàng Anh Dũng - Trợ lý Ban công binh V4 phụ trách kỹ thuật , phân đội công binh Vùng 4 ra triển khai thi công.
       Năm 1987 Tư lệnh trực tiếp ra kiểm tra thấy chưa yên tâm, Ông quyết định xây dựng một nhà lâu bền còn gọi là nhà C1 bên cạnh nhà C3, kết cấu bằng đá xây kết hợp bê tông cốt thép lắp ghép, do kỹ sư Đỗ Văn Thông thiết kế, Công binh vùng 4 thi công hoàn thành vào quý 3 năm 1987.
       Ngày 31/12/1986 Malaysia đưa quân chiếm đóng hai đảo chìm là Kỳ Vân và Kiều Ngựa. Ngày 14/2/1986 Trung Quốc đưa tàu chiến giả dạng tàu cá đến trinh sát một số bãi cạn ở Trường Sa và đặt các tấm bê tông " kỷ niệm ".
       Ngày 3/9/1987 Quốc hội Trung Quốc thông qua quy chế đưa đảo Hải Nam thành tỉnh và sáp nhập hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam vào tỉnh Hải Nam. Sau đó họ liên tục cho tàu chiến giả dạng tàu dân sự để khảo sát, trinh sát thăm dò quần đảo Trường Sa của ta nhằm âm mưu xâm chiếm các đảo chìm.
       Trước tình hình đó, quán triệt Nghị quyết của Bộ chính trị, Chỉ thị của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, ngày 24/10/1987 Đảng uỷ Quân chủng Hải quân đã họp và có chủ trương: tranh thủ thời gian, triệt để triển khai lực lượng đóng giữ trên các đảo, không để đối phương thực hiện ý đồ đóng xen kẽ với ta. Kiên quyết hoàn thành đóng giữ các đảo chìm trong 3 năm (1988 - 1990), tổ chức lực lượng đóng giữ 11 bãi đá (Đá Tây, Chữ Thập, Đá Lớn, Tiên Nữ, Đá Thị, Tốc Tan, Ga Ven, Đá Đông, Châu Viên, Núi Le , Đá Lát). Qua nghiên cứu Bộ tư lệnh Hải quân thấy các bãi đá phía Tây như : Đá Tây, Chữ Thập, Đá Lớn, Đá Lát có vị trí quan trọng, đối tượng tranh chấp là Trung Quốc; các đảo phía Đông như: Tiên Nữ, Tốc Tan, cần đề phòng Trung Quốc lợi dụng thời cơ chiếm thêm.
Để kịp thời đối phó với các tình huống, đêm 24/10/1987, Phó đô đốc Giáp Văn Cương - Tư lệnh Hải quân ra mệnh lệnh chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu cho các lực lượng thuộc quần đảo Trường Sa, tránh âm mưu khiêu khích của đối phương; đồng thời chỉ thị cho Lữ đoàn 125 chuẩn bị tàu, pông tông sẵn sàng đưa lực lượng ra Trường Sa, chuyển các tàu của lữ đoàn 172 vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu , cơ động ra phía trước; Trung đoàn Công binh 83 chuẩn bị lực lượng, phương tiện, sẵn sàng làm nhiệm vụ xây dựng đảo. Lúc này Trung đoàn Công binh 83 đang đóng tại Đà Nẵng.
       Ngay sáng hôm sau, ngày 25/10, Tư lệnh Hải quân đã trực tiếp báo cáo Bộ trưởng Bộ quốc phòng về kiến nghị và kế hoạch đóng giữ bảo vệ Trường Sa và đề nghị cho máy bay của không quân trinh sát nắm tình hình quần đảo Trường Sa.
       Trong khi chưa có chỉ thị, nhưng trước nguy cơ chủ quyền Tổ quốc bị xâm lấn, ngay đêm 24/10/1987 Tư lệnh Hải quân ra lệnh cho Vùng 4 gấp rút đưa lực lượng ra đóng giữ các bãi đá Tiên Nữ, Đá Lớn, Đá Tây, Chữ Thập.
Ngày 28/10/1987 tàu HQ613 do đồng chí Nguyễn Hữu Tại làm thuyền trưởng chở một phân đội chiến đấu của Lữ đoàn 146 và phân đội Công binh của Vùng 4 do đồng chí Nguyễn Trung Cang - Phó lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 146 chỉ huy ra chốt giữ Đá Tây. Do sóng lớn, việc xây dựng công sự rất khó khăn, sau một thời gian phải đưa bộ đội về Cam Ranh.
       Ngày 3/11/1987 tàu HQ617 đến Đá Lớn, do sóng gió lớn phải quay về Nam Yết neo. Ngày 7/11 quay lại Đá Lớn, sóng to làm đứt 2 neo phải quay về Cam Ranh.
      Do sóng gió quá lớn, đã rất cố gắng, nhưng việc đóng giữ hai đảo Chữ Thập và Tiên Nữ chưa thực hiện được.
        Ngày 6/11/1987, Bộ Quốc phòng thông qua kế hoạch đóng giữ các bãi cạn. Đồng thời có mệnh lệnh số 1679/ ML- QP về việc Bảo vệ Trường Sa gửi các Quân chủng Hải quân, Không quân: " Đưa lực lượng ra đóng giữ các bãi cạn chưa có người, không chờ xin chỉ thị cấp trên, trước mắt đưa ngay lực lượng ra đóng giữ Đá Tây, Chữ Thập, Đá Lớn, Tiên Nữ. Khai thác và phát huy mọi khả năng của các lực lượng vũ trang, các ngành, các địa phương để chi viện từ bờ ra đảo xa. Nếu đối phương xâm phạm đảo hoặc dùng vũ lực uy hiếp thì đánh trả và luôn cảnh giác, tỉnh táo, không mắc mưu địch khiêu khích ".
       Sáng 15/11 Tư lệnh Hải quân chỉ đạo Vùng 4 đưa các tàu ra chốt giữ ngay các bãi đá Chữ Thập, Đá Lớn, Tiên Nữ, làm nhà C3 ở Đá Tây. Đồng thời điều động một số lực lượng tàu chiến sẵn sàng chi viện, công binh sẵn sàng ra xây dựng công trình. Do gặp cơn bão số 6, kế hoạch đóng giữ chưa thực hiện được.
       Với Đá Tây đã khẩn trương đưa lực lượng ra làm nhà C3. Từ 28/12/1987 đến 15/1/1988 Công binh Vùng 4 đã lắp dựng xong nhà C3 ở Đá Tây bàn giao cho phân đội của Lữ đoàn 146 bảo vệ đảo.
       Ngày 22/1/ 1988 Trung Quốc đưa tàu hộ vệ tên lửa 156 , tàu tuần tiễu 9332, tàu dầu 941, tàu đổ bộ 932 và một số tàu khác thuộc hạm đội Nam Hải đến chiếm đóng đá Chữ Thập. Tiếp theo họ đưa một lực lượng lớn gồm 2 tàu hộ vệ tên lửa, 2 tàu khu trục tên lửa, 4 tàu bảo đảm hoạt động xung quanh đảo, khống chế không cho tàu thuyền các nước qua lại. Họ tổ chức thành ba cụm tuyến hoạt động: Cụm phía sau lấy Hoàng Sa làm căn cứ thường xuyên với nhiều tàu chiến lớn các loại nhằm uy hiếp, ngăn cản Hải quân ta hoạt động ở Vịnh Bắc Bộ, gây khó khăn cho ta triển khai hoạt động bảo vệ vùng biển phía Nam. Cụm ngăn chặn lực lượng Hải quân ta ở Đông bán đảo Cam Ranh, Cù Lao Thu. Cụm Chữ Thập âm mưu khống chế ta ở khu vực Trường Sa. Khi có thời cơ họ sẽ phát triển xuống phía Nam.
       Trước âm mưu của Trung Quốc, chúng ta đã khẩn trương đưa các tàu vận tải của Lữ đoàn 125, lực lượng Công binh của Trung đoàn 83, lực lượng của Lữ đoàn 146, lực lượng Công binh Vùng 4 ra đóng giữ các bãi đá.
       Ngày 23/1/1988 tàu HQ 613 do Trung tá Võ Tiến Cai - Phó lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 146 chỉ huy, đưa lực lượng và vật liệu ra xây dựng nhà C3 tại đảo Tiên Nữ, đến 6/2/1988 lực lượng của Trung đoàn Công binh 83 hoàn thành nhà C3.
        Đã xác định đảo Chữ Thập nằm ở trung tâm của quần đảo, có vị trí hết sức quan trọng. Ngày 27/1 Vùng 4 cử một biên đội tàu vận tải do đồng chí Phạm Công Phán, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 146 làm biên đội trưởng , đồng chí Nguyễn Văn Dân - Phó Tham mưu trưởng Vùng 4 làm biên đội phó. Lực lượng gồm một đại đội Công binh và 2 khung giữ đảo của Lữ đoàn 146 trên tàu HQ611 và HQ712 ra chốt giữ. Do sóng gió lớn, tàu hỏng máy, đến chậm. Sáng ngày 31/1, khi cách bãi Chữ Thập 5 hải lý phát hiện có 4 tàu chiến của Trung Quốc ra ngăn cản, ta mất Chữ Thập ( Trung Quốc đã chiếm từ 22/1 ).
       Tháng 2/1988, Trung Quốc đưa thêm 4 tàu hộ vệ tên lửa, hộ vệ pháo xuống hoạt động ở khu vực quần đảo Trường Sa, gây tình hình rất căng thẳng.
       Sáng ngày 4/2/1988, Tư lệnh Hải quân điện cho biên đội tàu đang neo ở đảo Trường Sa Đông đưa bộ đội đến đóng giữ Đá Lát trước 3 giờ ngày 5/2/1988. Tàu HQ611 và HQ712 chở khung xây dựng của Trung đoàn Công binh 83 và phân đội giữ đảo của Lữ đoàn 146 do đồng chí Nguyễn Công Phán - Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 146 chỉ huy ra Đá Lát, đến ngày 20/2 hoàn thành nhà C3.
       Ngày 16/2/1988 Đại tá Mai Xuân Vĩnh - Phó tư lệnh, Tham mưu trưởng Quân chủng cùng Cơ quan Bộ tư lệnh vào khẩn trương triển khai Sở chỉ huy tiền phương của Quân chủng tại Cam Ranh. Các lực lượng Thông tin, Ra đa, Quân báo, Đo đạc được triển khai đồng bộ.
       Sáng ngày 17/2, mồng 1 Tết cổ truyền, Sở chỉ huy Quân chủng Hải quân di chuyển từ Hải Phòng vào Cam Ranh.
       Tại Sở chỉ huy Cam Ranh có : Tư lệnh Giáp Văn Cương, Phó Tư lệnh về Chính trị - Bi thư Đảng ủy Lê Văn Xuân, Phó tư lệnh - Tham mưu trưởng Mai Xuân Vĩnh, Phó tư lệnh phụ trách Lục quân Phạm Huấn ...
Tư lệnh Hải quân kiêm Chỉ huy trưởng Vùng 4, trực tiếp chỉ huy nhiệm vụ Bảo vệ Trường Sa trong thời điểm vô cùng khó khăn, cấp bách, quan trọng này.
       Ngày 18/2 tàu HQ 851 của Vùng 3 và tàu HQ 614 của Vùng 4 nhận lệnh từ Đá Đông đến chốt giữ Châu Viên, biên đội do Đại tá Lê Văn Thư - Chỉ huy phó - Tham mưu trưởng Vùng 4 trực tiếp chỉ huy, lúc 12 giờ đến đảo Châu Viên, HQ 614 hạ xuồng chở 7 cán bộ chiến sĩ do Đại uý Cù Kim Tài - Phó tiểu đoàn trưởng của Trung đoàn Công binh 83 chỉ huy vào bãi cạn cắm cờ Tổ quốc. Nước biển lên, bộ đội thay nhau giữ cờ. Đến đêm nước biển lên cao , sóng to, đói, rét buộc phải quay về tàu. Lúc này HQ851 bị rê neo trôi xa dần. Biên đội quyết định đưa tàu về bãi Đá Đông thì nhận được lệnh của Sở chỉ huy Quân chủng "Cho tàu quay trở lại Châu Viên ngay, bằng mọi giá ủi bãi. Chấp hành. Không được hỏi lại". Lúc 1 giờ ngày 19/2 , biên đội nhổ neo về Châu Viên. Lúc 5 giờ sáng tới Châu Viên, HQ851 được lệnh ủi bãi. Xuất hiện 3 tàu Trung Quốc lao đến cắt mũi, ngăn chặn. Thuyền trưởng tàu HQ851 tìm cách điều khiển tàu tiếp cận bãi cạn, bị tàu Trung Quốc ép sát, chĩa súng đe doạ.
       Lúc 12 giờ Sở chỉ huy điện chỉ thị "Tiếp tục ủi bãi, Tổ quốc và nhân dân không bao giờ quên các đồng chí".
      Tàu ta và tàu đối phương giằng co nhau. Do có ưu thế hơn, 3 tàu Trung Quốc áp sát cắt mũi , HQ851 không thể ủi bãi đưa bộ đội lên được. Đến 6 giờ tối, HQ851 bị hỏng 1 máy chính, 2 máy phụ. Sở chỉ huy Vùng 4 nhận định, nếu ta cứ giằng co với đối phương chưa chắc đã giữ được mà còn mất cả Đá Đông. Đồng chí Thư quyết định cho tàu quay lại giữ Đá Đông.
       Đá Đông có vị trí quan trọng. Sở chỉ huy lệnh cho tàu HQ661 đưa lực lượng ra cắm cờ, canh gác đồng thời lệnh cho tàu HQ605 chở vật liệu và lực lượng của Lữ đoàn 146, Trung đoàn 83 ra xây dựng, giữ đảo. Mặc dù bị tàu chiến của Trung Quốc ngăn chặn, khiêu khích, các lực lượng đã bình tĩnh phối hợp triển khai xây dựng nhà C3..., Lực lượng lữ đoàn 146 đã triển khai bảo vệ đảo. Các tàu HQ605, 604 bảo vệ vòng ngoài.
       Trên hướng Đá Lớn, Lữ đoàn 125 điều tàu HQ505 từ Hải Phòng vào Cam Ranh cấp 500 tấn xi măng cho V4 xong, không vào TP Hồ Chí Minh mà nhận nhiệm vụ kéo tàu HQ556 cùng bộ phận công binh Vùng 4 và lực lượng của Lữ đoàn 146 ra đóng giữ Đá Lớn. Khi gần đến đảo phát hiện tàu khu trục và 2 tàu hộ vệ tên lửa của Trung Quốc ra ngăn cản. Khi cách khoảng 4 hải lý, tàu Trung quốc thả thủy lôi ngăn chặn. Tàu HQ 505 khôn khéo chuyển hướng kéo tàu HQ 556 về phía Bắc đảo. Ngày 20/2 sau khi quan sát thăm dò luồng, tàu HQ556 tiến về phía Nam đảo an toàn. Cùng thời gian này tàu Đại Lãnh của Công ty trục vớt Sài Gòn kéo tàu HQ582 và pông tông Đ02 ra Đá Lớn. Ngày 27/2 xuất phát từ Thành phố Hồ Chí Minh đến ngày 1/ 3 đưa pông tông vào vị trí Bắc Đá Lớn. Công binh Vùng 4 triển khai tiếp xây dựng nhà C3 tại đầu Nam Đá Lớn (Đá Lớn dài khoảng 17 km, ta đóng cả hai đầu, không để Trung Quốc đóng xen vào). Lực lượng của Lữ đoàn 146 triển khai bảo vệ đảo ngay.
       Tàu kéo HQ 965 của Lữ đoàn 125 ra kéo pông tông 7 và lực lượng của Lữ đoàn 146 ra Tốc Tan. Ngày 27/2 hoàn thành việc đóng giữ Tốc Tan.
       Với âm mưu sử dụng sức mạnh, có ưu thế về tàu chiến, vây ép, ngăn chặn, ngày 18/2/1988, Trung Quốc đã chiếm đóng trái phép bãi đá Châu Viên, ngày 26 họ chiếm bãi đá Ga Ven, ngày 28 chiếm đóng bãi đá Huy Gơ.
Đến đầu tháng 3 năm 1988, Hải quân ta đã triển khai xây dựng xong thế trận phòng thủ trên 7 bãi đá mới là Đá Tây ( 15/1), Đá Lát (5/2), Tiên Lữ, Đá Lớn ( 6/2 ), Đá Đông ( 18/2 ), Tốc Tan ( 27/2 ), Núi Le ( 2 / 3 ) và Thuyền Chài từ 1986. Đưa tổng số đảo, bãi đá do ta đóng giữ lên 17 đảo, bao gồm 9 đảo nổi, 8 bãi đá ngầm (đảo chìm).
       Trước tình hình Trung Quốc đã chiếm đóng trái phép 4 bãi đá thuộc quần đảo Trường Sa, Bộ Quốc phòng chỉ thị cho Quân chủng Hải quân phải tranh thủ đóng giữ thêm các bãi cạn chưa có người thuộc quần đảo chủ quyền của ta. Tổ chức đóng giữ không dùng nhiều người và có thể dùng mọi loại tàu để đóng giữ, kể cả tàu 159 AE . Công việc của 3 năm sẽ làm trong năm 1988.
       Ngày 4 tháng 3 năm 1988, Thường vụ Đảng ủy Quân chủng Hải quân tiếp tục họp quán triệt chỉ thị của Bộ, quyết định đóng giữ các bãi cạn: Cô Lin, Len Đao, Gạc Ma trước còn các bãi khác có kế hoạch sau. Việc đóng giữ, bảo vệ các đảo trên được Bộ tư lệnh chuẩn bị nhanh chóng, Trung đoàn Công binh 83 khẩn trương chuẩn bị lực lượng ra xây dựng công trình chốt giữ đảo.
       Đầu tháng 3 năm 1988, Trung Quốc huy động tăng số lượng tàu hoạt động ở quần đảo Trường Sa, thường xuyên có từ 9 đến 12 tàu chiến, tàu hỗ trợ gồm: 1 tàu khu trục tên lửa, 7 tàu hộ vệ tên lửa, 2 tàu hộ vệ pháo, 2 tàu đổ bộ, 3 tàu vận tải LSM, 1 tàu kéo, 1 tàu đo đạc và 1 pông tông cỡ lớn cùng một lực lượng lớn tàu vận tải và các loại tàu giả dạng tàu cá đến trinh sát, thăm dò, khảo sát... gây nên tình trạng rất căng thẳng trên cả khu vực quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
       Trước những diễn biến phức tạp, Bộ tư lệnh Hải quân đã chỉ thị cho Lữ đoàn tàu vận tải 125, Lữ đoàn giữ đảo 146, Trung đoàn Công binh 83 chuẩn bị sẵn sàng nhận nhiệm vụ tiếp theo.
       Thực hiện chỉ thị của Tư lệnh Hải quân, ngày 16/2/1988 (tức 30 tết Mậu Thìn) Trung đoàn Công binh 83 cơ động từ Đà Nẵng vào Cam Ranh. Trong giai đoạn này do Trung tá Nguyễn Văn Tĩnh - trung đoàn trưởng, Trung tá Nguyễn Thanh Sơn - Trung đoàn phó chính trị, Bí thư Đảng ủy, Thiếu tá Trần Đình Dần - Trung đoàn phó, Tham mưu trưởng, Trung tá Nguyễn Đình Thép - Trung đoàn phó kiêm Chủ nhiệm Kỹ thuật, Thiếu tá Nguyễn Xuân Điền - Chủ nhiệm Chính trị, Thiếu tá Nguyễn Thế Đổng - Chủ nhiệm Hậu cần. Thường vụ Đảng ủy, chỉ huy trung đoàn đã tập trung lãnh đạo đơn vị khẩn trương triển khai nhiệm vụ xây dựng nhà C3 chốt giữ các đảo chìm, đồng thời khẩn trương cơ động toàn Trung đoàn từ Đà Nẵng vào Cam Ranh để nhận nhiệm vụ mới.
       Nhiệm vụ đóng giữ các bãi đá Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao được khẩn trương triển khai. Ngày 7/3/1988 Trung đoàn 83 tổ chức 2 khung 70 người xuất phát ra Gạc Ma và Len Đao, hành quân hơn 1 ngày đêm trên biển, gặp sóng lớn tàu phải quay về.
       Bộ Tư lệnh Hải quân tiếp tục đưa lực lượng ra đóng giữ đảo.
Vào 20 giờ ngày 11 tháng 3 năm 1988, tàu HQ 604 của Lữ đoàn 125 do Đại uý Vũ Phi Trừ làm thuyền trưởng nhổ neo tại quân cảng Cam Ranh, chở hai khung xây dựng của Trung đoàn Công binh 83 gồm 70 người và vật liệu xây dựng 2 nhà C3 trên đảo Gạc Ma và đảo Len Đao. Khung Đại đội 7 do Kỹ sư Nguyễn Minh Tâm - Trợ lý tham mưu Trung đoàn làm khung trưởng. Khung của Đại đội 9 do đồng chí Trần Văn Phòng - phó đại đội trưởng về chính trị Đại đội 9 làm khung trưởng. 4 tổ chiến đấu thuộc 2 khung đi giữ đảo của Lữ đoàn 146 là 22 người, tổ đo đạc của Đoàn 6 thuộc Bộ tham mưu Hải quân 4 người, do Trung tá Trần Đức Thông - Phó lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 146 chỉ huy chung. Chiều 13 tháng 3 tàu đến đảo Gạc Ma thả neo.
       Tàu hộ vệ của Trung Quốc từ Huy Gơ chạy sang Gạc Ma, có lúc cách tàu ta 500 mét. Lúc 17 giờ ngày 13/3 tàu hộ vệ 502 của Trung Quốc áp sát tàu HQ 604 cách 50 mét, gọi loa khiêu khích, cán bộ chiến sĩ tàu HQ 604 vẫn vững vàng, không để mắc mưu địch. Tàu hộ vệ 502 cùng 1 tàu hộ vệ, 2 tài vận tải của Trung Quốc thay nhau cơ động quanh bãi đá Gạc Ma.
       Tại Sở chỉ huy Quân chủng Hải quân nhận được diễn biến tình hình, dự kiến tình huống có thể xảy ra đồng thời báo cáo lên Tổng tham mưu trưởng đề nghị không quân cho máy bay trinh sát yểm trợ bộ đội trong khu vực đá Gạc Ma.
       Đề nghị Bộ Ngoại giao phản đối hành động của Trung Quốc. Về lực lượng, điều tàu HQ13 từ Tốc Tan lên khu vực Cô Lin, Gạc Ma; HQ931 từ Đá Đông và HQ671 từ Đá Lớn đến Gạc Ma.
       Đồng thời vào lúc 02 giờ ngày 12 tháng 3, Tàu HQ505 đang trực ở đảo Đá Lớn do đồng chí Vũ Huy Lễ làm thuyền trưởng được lệnh đến chốt giữ đảo Cô Lin.
        Phát hiện sự hoạt động của ta ở khu vực Cô Lin, Gạc Ma, tàu hộ vệ 502 của Trung Quốc cơ động từ Gạc Ma sang Cô Lin cách HQ 505 khoảng 500 mét quan sát và đi về phía Tây Gạc Ma. Tàu 502 tiến sát HQ604 đang ở gần Gạc Ma và gọi loa khiêu khích " Đây là lãnh thổ của Trung Quốc, các người phải rời ngay". Đến 20 giờ, tàu 502 của Trung Quốc lùi ra nhập với nhóm 2 tàu vận tải đang ở cách đó không xa lắm.
       Vào 22 giờ ngày 13/3 tàu HQ605 do đồng chí Lê Lệnh Sơn làm thuyền trưởng đang trực ở Tốc Tan được lệnh cơ động đến giữ Len Đao.
       Vào 21 giờ ngày 13 tháng 3, Tư lệnh Hải quân chỉ thị cho bộ phận đi giữ đảo: Quyết giữ vững mục tiêu... Khẩn trương thả xuồng máy, xuồng nhôm, chuyển vật liệu lên làm nhà trên đảo ngay trong đêm 13 tháng 3 năm 1988. Toàn bộ lực lượng trên tàu khẩn trương triển khai ngay. Vào 3 giờ sáng 14 tháng 3, phân đội xây dựng nhà của Trung đoàn 83, tổ chiến đấu của Lữ đoàn 146, Tổ đo đạc của Đoàn 6 đã đổ bộ lên đảo Gạc Ma , xác định vị trí làm nhà, đã chở tập kết một số vật liệu, 3 giờ sáng tổ chiến đấu của Lữ đoàn 146 đã cắm cờ Việt Nam trên đảo Gạc Ma, triển khai bảo vệ bãi đá.
       Lúc 4 giờ 55 phút hai tàu hộ vệ 556, 531 của Trung Quốc từ bãi đá Chữ Thập đến Gạc Ma hỗ trợ, đe doạ. Ban chỉ huy tàu HQ 604 họp nhận định tàu Trung Quốc có thể dùng vũ lực can thiệp, quyết định chỉ huy bộ đội bình tĩnh xử lý, thống nhất thực hiện theo phương án tác chiến, quyết tâm bảo vệ đảo. Dùng loa đấu tranh với đối phương về chủ quyền rất kiên quyết.
       Bị tàu chiến của Trung Quốc áp sát đe doạ. Cán bộ chiến sĩ của ta vẫn kiên trì quyết tâm giữ đảo. Kế hoạch sau khi đưa quân và vật liệu lên đảo Gạc Ma xong , tàu HQ604 sẽ cơ động sang đảo Len Đao để đưa lực lượng và vật liệu sang xây dựng nhà C3 và chốt giữ đảo này.
       Vào lúc 06 giờ sáng ngày 14 tháng 3, đối phương thả 3 xuồng máy chở khoảng 40 quân đổ bộ lên đảo.
Dựa vào thế có tàu chiến uy hiếp, chúng hung hăng tiến vào giật cờ của ta. Các chiến sĩ Lữ đoàn 146 và Trung đoàn 83 do Thiếu uý Trần Văn Phương - Đảo phó chỉ huy bộ đội chống trả quyết liệt.
       Quân Trung Quốc dùng xuồng máy cắt dây kéo xuồng của tàu HQ604, không cho bộ đội ta trên tàu vào chi viện. Trung tá Trần Đức Thông - Phó lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 146 hô: Đồng chí nào biết bơi nhảy xuống biển bơi vào chiến đấu giữ cờ, quyết không cho quân địch cướp lá cờ của ta. Bộ đội ta quần đùi áo lót nhảy xuống biển bơi vào đảo ngay.
       Được tăng cường thêm quân số, bộ đội ta dũng cảm đứng vây quanh kiên quyết bảo vệ lá cờ Tổ quốc không cho đối phương lao vào. Thiếu uý Trần Văn Phương đã động viên bộ đội “Thà hi sinh chứ nhất định không chịu mất đảo, hãy để máu của mình tô thắm lá cờ Tổ quốc và truyền thống của Quân chủng" . Giành giật với lực lượng của ta không được, binh lính Trung Quốc điên cuồng nổ súng vào người chỉ huy dũng cảm, kiên cường bảo vệ chủ quyền Tổ quốc. Thiếu úy Trần Văn Phương hi sinh. Cuộc giành giật lá cờ giữa bộ đội ta với quân đối phương ngày càng quyết liệt. Ngay lúc đó binh nhất Nguyễn Văn Lanh chiến sĩ của Trung đoàn Công binh 83 cùng đồng đội xông lên xiết chặt đội ngũ xung quanh bảo vệ lá cờ của Tổ quốc. Đồng chí Lanh đã dũng cảm đánh văng khẩu súng ngắn trong tay tên sĩ quan chỉ huy của Trung Quốc, rồi lao vào nhanh trí cuốn lá cờ đỏ sao vàng vào quanh ngực mình. Trước hành động anh dũng, kiên cường của bộ đội ta, chúng không giật được cờ, một tên lính của đối phương hèn hạ dùng lưỡi lê đâm lén phía sau vào vai đồng chí Lanh, bị thương nhưng không thể làm anh gục ngã, hai đồng đội đã nhanh chóng hỗ trợ đồng chí Lanh đứng thẳng, hiên ngang trước quân thù. Quân ta đã nắm tay nhau đứng vòng quanh quyết bảo vệ lá cờ thiêng liêng của Tổ quốc trên đảo Gạc Ma, dùng xà beng, dụng cụ lao động chống trả lại những hành động hung hãn của quân thù.
       Sau gần một tiếng đồng hồ giành giật với bộ đội ta, không làm gì được, chúng dã man dùng súng AK bắn vào bộ đội ta, hai viên đạn xuyên qua bả vai bên phải đồng chí Lanh làm anh bị thương nặng hơn. Bộ đội ta không nhụt chí.
      Không thể phá vỡ được vòng tròn bất tử của các chiến sỹ Hải Quân nhân dân Việt Nam, chúng rút quân lên tàu. Hai tàu hộ vệ 502 và 532 xả pháo 37 ly, súng 12, 7 ly bắn vào quân ta trên đảo làm một số cán bộ chiến sĩ thương vong.
       Sau đó vào 07 giờ 50 phút, hai tàu 502 và 532 của Trung Quốc dùng pháo bắn vào tàu HQ604. Tàu vận tải HQ604 bắn trả nhưng chỉ có vũ khí bộ binh nên không hiệu quả. Tàu HQ 604 bị chìm bên bãi cạn Gạc Ma. Đây là một hành động vô cùng dã man của Hải quân Trung Quốc.
       Sau khi tàu Trung Quốc rút đi, trên đảo Gạc Ma còn lại khoảng bốn chục cán bộ chiến sĩ của Trung đoàn 83, Lữ đoàn 146 và tổ đo đạc của Đoàn 6, một số cán bộ chiến sĩ trên tàu HQ604 bị chìm bơi vào, trong đó có Đảo      Trưởng đảo Gạc Ma Bùi Hoàng Hải bị thương trên tàu.
       Tại Cô Lin vào lúc 6 giờ ngày 14/3/1988 tàu HQ505 đã cắm hai lá cờ trên bãi đá. Khi thấy tàu của Trung Quốc bắn vào tàu HQ604, đồng chí Vũ Huy Lễ thuyền trưởng tàu HQ505 lập tức ra lệnh nhổ neo ủi bãi kiên quyết bảo vệ đảo của ta. Hai tàu hộ vệ 502 và 531 của Trung Quốc lại điên cuồng bắn vào tàu HQ505 làm tàu hỏng lái. Song tàu HQ505 vẫn kiên cường chạy hết tốc lực ủi bãi, trườn được hai phần ba thân tàu thì bốc cháy. Cán bộ chiến sĩ trên tàu dũng cảm dập lửa bảo vệ tàu và tổ chức cấp cứu thương binh. Đồng thời nhanh chóng đưa xuồng máy đến Gạc Ma đón, cứu, vớt đồng đội.

       Tại Len Đao vào 4 giờ 30 phút ngày 14 tháng 3 tàu HQ605 cho bộ đội lên cắm cờ trên bãi đá.
       Đến 8g 20 phút tàu hộ vệ 556 của Trung Quốc từ Gạc Ma tới dùng pháo bắn vào tàu HQ605 làm tàu bốc cháy. Bộ đội ta dũng cảm dập lửa cứu tàu nhưng do cháy quá lớn nên phải rời tàu lên xuồng về đảo Sinh Tồn. Đến 3 giờ ngày 15 tháng 3 tàu HQ605 chìm xuống biển ở bãi đá Len Đao.
       Tại đảo Gạc Ma còn hơn bốn chục người trong đó có 38 cán bộ chiến sĩ của Trung đoàn 83 ẩn nấp tránh được làn đạn như mưa của địch. Trên đảo Gạc Ma chỉ chết mấy người thôi.
        Theo thượng uý Nguyễn Văn Chương - Trung đội trưởng của Trung đoàn Công binh 83 kể lại : Khi tàu địch rút đi, đồng chí Chương đã chỉ huy bộ đội cứu thương binh, dựng lại lá cờ, do bị quân địch bẻ gẫy cán, các chiến sĩ của ta đã dùng 3 cột bê tông chụm lại giữ lá cờ. Lá cờ đỏ sao vàng vẫn phấp phới tung bay trên đảo Gạc Ma, biểu hiện chủ quyền quốc gia của Việt Nam.
        Quân Trung Quốc đã đến đánh chiếm đảo này bằng vũ lực. Đồng thời Trung Quốc đổ quân lên một đầu đảo chiếm đảo Gạc Ma
        Nước bắt đầu lên cao dần, chưa thấy tàu xuồng ra ứng cứu, đồng chí Chương đã chỉ huy bộ đội dùng xuồng nhôm bị quân địch bắn thủng, xé quần áo ra bịt lại đưa anh em thương binh lên xuồng trong đó có đồng chí Bùi Hoàng Hải - Đảo trưởng đảo Gạc Ma bị thương, cùng nhau dùng các mảnh gỗ làm bơi chèo chèo từ 10 giờ sáng, đến chiều thì tới gần đảo Cô Lin. Thuyền trưởng Vũ Huy Lễ nhìn thấy cho xuồng máy của tàu HQ505 ra cứu và đã sang Gạc Ma cứu hết số anh em về đảo Cô Lin.
         Trung Quốc đưa quân lên một đầu đảo chiếm đảo Gạc Ma của ta.
        Sau khi nhận được tin các tàu HQ604, HQ605 , HQ505 bị bắn chìm, bắn cháy, Bộ Tư lệnh Hải quân đã điện cho tàu HQ13 không đến Gạc Ma nữa; lệnh cho HQ671 và HQ931 treo cờ Chữ thập đỏ đến khu vực Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao làm nhiệm vụ cấp cứu, cứu hộ. Bị tàu Trung Quốc ngăn chặn, khiêu khích liên tục, tàu HQ671 vẫn tới Cô Lin lúc 15 giờ ngày 14 tháng 3 để đưa cán bộ chiến sĩ tàu HQ604 đã cứu được về đảo Sinh Tồn vào lúc 22 giờ. Tàu HQ931 cũng vượt qua sự ngăn chặn, khiêu khích của quân Trung Quốc, 13 giờ đến được Len Đao, sau khi quan sát chỉ thấy lá cờ Tổ quốc đang tung bay trên đảo, tàu HQ605 đang cháy và chìm dần. Không đón được ai, do cán bộ chiến sĩ tàu HQ605 đã dùng xuồng rời tàu về đảo Sinh Tồn, tàu HQ931 quay về Sinh Tồn.
       Trong sự kiện ngày 13/3/1988, tàu Trung Quốc đã bắn cháy, bắn chìm 3 tàu của ta, 64 đồng chí hy sinh, 11 đồng chí bị thương.
       Tại cuộc hội thảo về đề tài báo cáo khoa học đề nghị Chủ tịch nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh cho nhóm tác giả về Cụm công trình chiến đấu trên quần đảo Trường Sa, do Phó đô đốc Nguyễn Văn Hiến - Tư lệnh Hải quân chủ trì, Phó đô đốc Mai Xuân Vĩnh - Nguyên Tư lệnh Hải quân, trưởng nhóm tác giả, cùng một số đồng chí nguyên là thủ trưởng Bộ Tư lệnh và cơ quan Bộ tư lệnh Hải quân có mặt. Có nêu vấn đề Sự kiện Gạc Ma, trong đó có chi tiết:
       Tư lệnh Hải quân Giáp Văn Cương đã làm việc với Chuẩn đô đốc - Đại diện Hạm đội Thái Bình Dương của Liên Xô tại Cam Ranh, đề nghị họ cho tàu Bệnh viện của Hạm đội đang đóng tại Cam Ranh ra cứu thương binh, lấy tử sĩ , nhưng không được phía hạm đội ủng hộ.
       Theo Thượng tá Nguyễn Văn Ánh - Nguyên Chủ nhiệm Công binh Vùng 4 trong đoàn công tác kể lại:
Khi không được tàu của Phân hạm đội thuộc Hạm đội Thái Bình Dương giúp, Tư lệnh Hải quân quyết định đưa tàu của ta ra xử lý tình hình tại thực địa
       Đoàn cán bộ 30 người do Đại tá Mại Xuân Vĩnh - Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng chỉ huy, trên tàu HQ613 do đồng chí Đại uý Cao Đức Tại làm Thuyền trưởng xuất phát từ Cam Ranh vào ngày 17/3. Đến gần Gạc Ma thấy 3 tàu chiến của Trung Quốc đang trực. Tàu ta treo cờ chữ thập đỏ hướng về phía đảo Cô Lin, tàu chiến đối phương áp sát khiêu khích, đe dọa, tàu ta vẫn bình tĩnh đi đến vị trí tàu HQ505. Đối phương không áp sát nữa. Đoàn thăm động viên bộ đội, làm việc với Chỉ huy tầu HQ505, giao nhiệm vụ, tặng quà. Sau đó đoàn sang Len Đao, kiểm tra lá cờ đỏ sao vàng vẫn phấp phới tung bay trên đảo Len Đao, đoàn về đảo Sinh Tồn làm việc, sau đó về Cam Ranh an toàn.
       Ngày 2 tháng 5 năm 1988, chấp hành chỉ thị của Tư lệnh Hải quân, Trung đoàn 83 cử 2 tổ mỗi tổ 3 người theo tàu đánh cá của Đoàn 128 Hải quân ra Gạc Ma để lặn kiểm tra đánh dấu vị trí tàu HQ 604 bị chìm, thả neo có phao đánh dấu.
       Trong trận chiến đơn phương do Trung Quốc gây ra, tổng số 64 cán bộ chiến sỹ Hải quân đã hy sinh , chủ yếu trên tàu HQ 604 ở đảo Gạc Ma, trong đó có 26 cán bộ chiến sĩ của Trung đoàn Công binh 83. Một số cán bộ chiến sĩ bị thương.
       Hành động dũng cảm, kiên quyết đấu tranh để bảo vệ lá cờ, bảo vệ chủ quyền Tổ quốc của Thiếu uý Trần Văn Phương và các liệt sĩ ở Gạc Ma sẽ sống mãi cùng lịch sử dân tộc với biểu tượng là tấm bia chủ quyền bất tử. Giữ gìn, khơi dậy niềm kiêu hãnh và tự hào về truyền thống yêu nước, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam.
       Trung Quốc bắt 9 người trôi trên biển khi tàu chìm, trong đó có 6 chiến sĩ của của Trung đoàn Công binh 83 mang về đảo Hải Nam giam giữ, năm 1991 họ trao trả, khi ấy tôi là Trung đoàn trưởng, ra nhận 6 chiến sĩ của Trung đoàn công binh 83, đưa anh em ra Hạ Long an dưỡng.
       Đối với ta, mặc dù so sánh lực lượng chênh lệch, phương tiện, vũ khí trang bị hạn chế cả về số lượng và chất lượng, bằng các hành động dũng cảm, ngoan cường, không chùn bước trước mũi súng của đối phương . Với quyết tâm cho tầu ủi bãi, dùng tàu vận tải , pông tông, tàu LCU neo cắm, lắp dựng nhà C3 , kết hợp với đấu tranh ngoại giao, sự phản ứng mạnh mẽ của nhân dân ta thông qua biểu tình phản đối Trung Quốc, huy động sức người sức của chi viện cho Trường Sa, đã ngăn chặn âm mưu của Trung Quốc chiếm đảo Cô Lin và Len Đao. Kết quả chúng ta đã chốt giữ được 12 đảo chìm trong khi Trung Quốc chiếm 7 đảo chìm. Trong sự kiện xảy ra ở khu vực 3 đảo chìm họ chỉ chiếm được 1 đảo Gạc Ma, chúng ta vẫn giữ được 2 đảo Cô Lin và Len Đao.
       Trung tá Vũ Huy Lễ - Thuyền trưởng tàu HQ 505, Trung tá liệt sĩ Trần Đức Thông - Phó lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 146 , Đại uý liệt sĩ Vũ Phi Trừ thuyền trưởng tàu HQ 604, Thiếu uý liệt sĩ Trần Văn Phương cán bộ Lữ đoàn 146, Binh nhất Nguyễn Văn Lanh chiến sỹ của Trung đoàn Công Binh 83 đã được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân.
       Sau đó Bộ tư lệnh Hải quân quyết định đưa tàu đổ bộ LCU - HQ554 ra cứu hộ tàu HQ605, thực chất là chốt giữ đảo Len Đao. Tàu HQ505 vẫn nằm trên đảo Cô Lin, một tàu cá 706 ra với danh nghĩa là cứu hộ tàu HQ505, thực chất là chốt giữ đảo Cô Lin. Đại tá Phạm Văn Thư - Chỉ huy phó, Tham mưu trưởng Vùng 4 đi trên tàu cá 706 chỉ huy chung.
       Tư lệnh Hải quân chỉ đạo đưa tàu kéo ra và lực lượng kỹ thuật ra hàn vá, dùng hơn bốn mươi chiếc máy bơm bơm nước rò rỉ. Đang kéo về dọc đường, tàu HQ505 đã bị chìm xuống biển, một tổn thất lớn cho Hải quân Việt Nam. Đây là con tàu đổ bộ lớn nhất của Hải quân Việt Nam, thu được của Hải quân nguỵ Sài Gòn, do Mỹ trang bị, lượng dãn nước 5.000 tấn.
       Trung Quốc chọn thời điểm từ cuối năm 1987 đến đầu năm 1988 gió mùa Đông Bắc rất mạnh, sóng lớn để thực hiện âm mưu chiếm đóng, đánh chiếm các đảo chìm của ta ở Trường Sa. Các tầu của ta nhỏ chịu sóng gió kém, chưa có định vị vệ tinh, đi dễ lạc đường không bắt được đảo chìm nên gặp nhiều khó khăn bất lợi. Lực lượng tàu của Hải quân ta lúc đó còn hạn chế , chúng ta có tầu Phóng lôi và tàu Tên lửa, tàu Pháo nhưng đều là loại nhỏ tiến công ven bờ, chịu sóng gió kém, không có khả năng tác chiến dài ở ngoài Trường Sa được. Về không quân các máy bay MIC không bay tới Trường Sa, ta có máy bay SU 22 nhưng thông tin ra đa dẫn đường chỉ hạn chế , bay tới Trường Sa nhưng khả năng hoạt động chiến đấu rất hạn chế. Trong khi đối phương có các tầu chiến lớn: khu trục, hộ vệ tên lửa, hộ vệ pháo với số lượng nhiều và hoả lực rất mạnh, lực lượng không cân sức.
       Đồng thời lúc đó chúng ta còn đang phải đối phó với cuộc chiến tranh ở biên giới phía Bắc chưa kết thúc. Lực lượng còn đang ở Căm Pu Chia giúp bạn tiêu diệt bọn Pol Pot vẫn đang tiến hành. Tình hình kinh tế đất nước vô cùng khó khăn. Về đối ngoại cũng không thuận lợi khi chúng ta đưa quân vào Căm Pu Chia giúp nhân dân bạn đánh đổ chế độ diệt chủng Khmer Đỏ.
       Có người phát biểu, viết bài nói là do có lệnh “không được nổ súng” nên đã mất Gạc Ma. Nói như vậy là hoàn toàn sai trái, xuyên tạc. Cán bộ chiến sĩ Hải quân luôn quán triệt tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt là giữ gìn môi trường hoà bình, không khiêu khích, không mắc mưu để đối phương tạo cớ đánh ta. Nhưng khi bị tiến công thì kiên quyết chiến đấu đánh trả tự vệ, quyết tâm bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc.
       Phải hiểu rằng tác chiến trên biển hoàn toàn khác với tác chiến trên đất liền. Tương quan lực lượng Hải quân của hai bên khi đó và trực tiếp ở Trường Sa ta ở thế yếu. Tình hình các mặt của đất nước vô cùng khó khăn.
       Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương - Bộ quốc phòng , sự lãnh đạo, chỉ huy của Thường vụ Đảng ủy - Bộ tư lệnh Hải quân, Tư lệnh Giáp Văn Cương trực tiếp chỉ huy, điều hành, xử lý tình hình lúc đó là hết sức sáng suốt, giữ được trạng thái ổn định sau 14 tháng 3 không để đối phương tiếp tục lấn tới.
       Ngày 7/5/1988, Đại tướng Lê Đức Anh, Uỷ viên Bộ chính trị, Phó bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra thăm quần đảo Trường Sa. Phát biểu tại buổi lễ kỷ niệm 33 năm Ngày thành lập Hải quân nhân dân Việt Nam tổ chức ở đảo Trường Sa, Đại tướng biểu dương Hải quân.... đã nỗ lực thực hiện nhiệm vụ được giao. Bộ trưởng xúc động nhấn mạnh " Nhân dịp kỷ niệm Hải quân nhân dân Việt Nam, trên đảo chính của quần đảo Trường Sa, có mặt đông đủ các tổng cục, các quân chủng, đại biểu tỉnh Phú Khánh, chúng ta xin thề trước hương hồn của Tổ Tiên ta, trước hương hồn của cán bộ chiến sĩ đã hi sinh vì Tổ quốc, xin hứa trước đồng bào cả nước, xin nhắn nhủ với các thế hệ mai sau: Quyết tâm bảo vệ bằng được Tổ quốc thân yêu của chúng ta, bảo vệ bằng được quần đảo Trường Sa, một phần lãnh thổ, lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc thân yêu của chúng ta".
       Hàng năm chúng tôi đi trên tàu ra xây dựng Trường Sa, lần nào qua Gạc Ma cũng dừng lại thả hương hoa đứng viếng đồng đội với bao nỗi niềm nghẹn ngào thương tiếc. Các anh đã vĩnh viễn nằm lại nơi đây, giữa biển khơi sóng cả để canh giữ đảo này canh giữ vùng biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc .
       Tôi đã viết bài thơ "Qua đảo Gạc Ma". Nội dung như sau:
QUA ĐẢO GẠC MA
Tầu qua bãi cạn Gạc Ma
Ầm ào sóng vỗ tiếng loa bi hùng
Hoa tươi nến sáng thả cùng
In vào đáy biển sóng lừng Đại dương
Quyện trong màn khói trầm hương
Bóng hình đồng đội xót thương giao hoà
Nỗi đau mười bốn tháng ba
Pháo hạm, lính thuỷ Trung Hoa bạo tàn
Súng lia, đạn nổ, máu chan
Tầu chìm, người ngã trên làn san hô
Nguyễn Văn Lanh quyết giữ cờ
Chúng toan cướp đảo, mưu đồ xấu xa
Vững vàng ý chí xông pha
Hy sinh anh dũng Đoàn Ta kiên cường
Tuổi xuân để lai chiến trường
Biển xanh quanh đảo máu xương thấm dầy
Các Anh yên nghỉ nơi đây
Ngày đêm canh giữ đảo này không ngơi
Niềm tin son sắt đời đời
Chủ quyền Tổ quốc biển trời của ta
Nhắc nhau nhớ đến Gạc Ma
Đối phương xâm chiếm còn là nỗi đau
Trường Sa mảnh đất tuyến đầu
Ngàn năm sóng hát khắc sâu lòng người.

THĂM LỮ ĐOÀN TRƯỞNG TRƯỜNG SA NĂM 1988
NÓI CHUYỆN GẠC MA
       Hôm nay về Thái Bình có việc, tôi đến Đông Cường - Đông Hưng - Thái Bình thăm Đại tá Phạm Công Phán - Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 146 - Vùng 4 Hải quân hồi năm 1988. Gửi anh bản thảo cuốn sách Bảo vệ chủ quyền Biển đảo Việt Nam, đề nghị anh đọc đóng góp ý kiến.
       Lần đầu năm 1991 đi họp ở Hải Phòng - Trung đoàn trưởng Trung đoàn CBHQ 83 Hoàng Kiền đưa Đại tá Phạm Công Phán - Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 146 đi cùng ô tô từ Hải Phòng về nhà anh.
Hôm nay thăm lại nhà anh đúng 30 năm tròn . Tôi 71 tuổi, Anh 79 tuổi.
Thời gian thấm thoắt thoi đưa
Ngửng lên đã thấy quá trưa xế chiều
...
       Ngồi nói chuyện về sự kiện Gạc Ma khá lâu, rất thú vị, sẽ bổ sung vào cuốn sách Chủ quyền Biển đảo Việt Nam.
        Những điều rất ấn tượng
- Trước 14/3/1988 Đại tá Phạm Công Phán được Tư lệnh Giáp Văn Cương điều từ Tham mưu phó Vùng 4 quay xuống làm Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 146 bảo vệ Trường Sa. Được giao chỉ huy biên đội tàu vận tải ra đóng giữ đá Chữ Thập, do các yếu tố tàu bè, thời tiết, quan sát trên biển... ra đến nơi Trung Quốc đã chiếm mất trước, họ cho tàu chiến ra ngăn cản...
- Anh nhận được điện của Tư lệnh Giáp Văn Cương về Đá Đông sau đó ra chốt giữ Đá Lát: Tư lệnh điện chỉ thị, khi cần thiết cho tàu ủi bãi giữ đảo, có chết phải chết trên đảo, không được chết trên biển. Chỉ có lệnh của Tư lệnh Giáp Văn Cương quyết tâm bằng mọi giá giữ đảo, không có lệnh nào khác cả. Ta chỉ có tàu vận tải ra dựng nhà chốt giữ đảo .
- Sau 14/3/1988 khi sự kiện Gạc Ma xảy ra, anh được gọi vào bờ để đưa Đại tướng Lê Đức Anh ra Trường Sa, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã vào Cam Ranh. Thủ tướng hỏi về tình hình Trường Sa. Anh Phán báo cáo: chúng ta đã quản lý 9 đảo nổi. Từ năm 1978 đến năm 1984 Lữ đoàn 146 và Trung đoàn CB 83 đã phối hợp thả các bia chủ quyền trên hơn 100 đảo chìm hoàn thành rồi.
Thủ tướng nói: nguỵ quyền Sài Gòn đã để mất Hoàng Sa, nay mất Trường Sa nữa là mất nước, bằng mọi giá phải giữ Trường Sa.
- Anh trực tiếp chỉ huy tàu đưa đại tướng Lê Đức Anh ra Trường Sa, lời thể của Đại tướng tại đảo Trường Sa lớn ngày 7/5/1988 nói lên tất cả, không ai có thể xuyên tạc được.
- Tháng 6/1988 Anh được Tư lệnh Giáp Văn Cương giao đi tàu ra chỉ huy lực lượng của Lữ đòan 146 phối hợp cùng lực lượng của Trung đoàn CB83 do đồng chí Trần Đình Dần - Trung đoàn phó TMT chỉ huy ra dựng nhà C2 trên đảo Len Đao và đảo CoLin.
       Nhà trên đảo Len Đao dựng trước. Có 24 lá quốc kỳ Việt Nam được cắm lên đảo Len Đao như Đại hội Đảng vây. Anh em làm suốt đêm, sáng hôm sau dựng xong khung nhà. Sau 4 ngày dựng xong nhà trên đảo Len Đao.
       Sau đó dựng nhà trên đảo Cô Lin cũng 4 ngày là xong.
       Chúng ta giữ được Len Đao và Cô Lin trước sự uy hiếp của tàu chiến Trung Quốc .
      Khi ấy Trung Quốc bắn chìm tàu vận tải HQ604 tại Gạc Ma, bắn chìm Tàu vận tải HQ 605 tại Len Đao, bắn cháy tàu đổ bộ HQ 505 tại Cô Lin , sát hại 64 cán bộ chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam, chiếm đảo Gạc Ma. Chúng ta vẫn đưa quân ra dựng nhà chốt giữ hai đảo Len Đao và Co Lin. Đối phương ngăn cản uy hiếp nhưng không dám nổ súng nữa, vì phong trào đấu tranh phản đối hành động xâm lược của Trung Quốc diễn ra khắp cả nước và sự phản đối của các nước trên thế giới.

Thái Bình chiều 4/3/2021
Hoàng Kiền
 

tin tức liên quan